MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử
vấn đề nghiên cứu
3. Mục đích
nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
4. Đối tượng
nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
5. Phương
pháp nghiên cứu
6. Giả
thuyết khoa học
7. Cấu trúc
luận văn
NỘI DUNG
Chương 1. KHÁI LƯỢC VỀ PHÊ BÌNH SINH THÁI VÀ
HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO CỦA NHÀ THƠ MAI VĂN PHẤN
1.1. Khái lược về phê bình sinh thái
1.1.1. Khái niệm phê bình sinh thái
1.1.2. Lịch sử phê bình sinh thái
1.1.2.1. Cội nguồn triết học của phê
bình sinh thái
1.1.2.2. Sự phát triển của phê bình
sinh thái
1.1.3. Phê bình sinh thái trong văn
học Việt Nam hiện đại
1.2. Hành trình sáng tạo của nhà thơ Mai
Văn Phấn
1.2.1. Thơ Mai Văn Phấn trong dòng chảy thi ca Việt Nam đương đại
1.2.2. Những chặng đường sáng tạo
1.2.1.1. Giai đoạn từ khởi nghiệp đến
năm 1995
1.2.1.2. Giai đoạn từ 1995 đến 2000
1.2.1.3. Giai đoạn từ năm 2000 đến nay
1.2.3. Quan niệm nghệ
thuật
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Chương 2. SINH THÁI TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN QUA CÁC BIỂU TƯỢNG CƠ BẢN
2.1. Khái niệm “biểu tượng”
2.2. Sinh thái trong thơ Mai Văn Phấn qua các
biểu tượng cơ bản
2.2.1. Hệ biểu tượng về bầu trời
2.2.1.1. Biểu tượng ánh sáng
2.2.1.2. Biểu tượng ngọn gió, giọt
sương, chim muông
2.2.2. Hệ biểu tượng về mặt đất
2.2.2.1. Biểu tượng đất
2.2.2.2. Biểu tượng nước
2.2.2.3. Biểu tượng cỏ cây, hoa lá
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Chương 3. MỐI QUAN HỆ HÀI HÒA GIỮA CON NGƯỜI VÀ
TỰ NHIÊN: SỰ THỨC TỈNH CỦA ĐẠO ĐỨC SINH THÁI
3.1. Sự hài hòa giữa con người và tự nhiên
3.1.1. Người mẹ: cội nguồn thế giới
3.1.2. Người tình: đắm say, rạo rực và
tình tứ
3.1.3. Anh trong miên man cảm xúc bất
tận
3.2. Sự thức tỉnh của đạo đức sinh thái
3.2.1. Cái nhìn trân trọng môi trường
tự nhiên
3.2.2. Những âu lo khi tự nhiên bị tàn
phá
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trong thời đại ngày nay, vấn đề sinh thái đã và đang trở
thành vấn đề cấp bách mang tính toàn cầu. Sự
ích kỉ của con người và sự tận diệt tự nhiên đang đe dọa sự tồn tại của toàn nhân loại. Người ta thấy rằng để giải quyết mối căng thẳng giữa con người với tự nhiên, chống lại sự nổi giận của thiên nhiên không chỉ bằng sức mạnh vật chất mà còn phải dựa
vào khoa học nhân văn. Giữa thập niên 90 của thế
kỉ XX, phê bình sinh thái ra đời có sứ mệnh phân tích, chỉ ra căn nguyên văn hóa, tư tưởng dẫn đến nguy cơ sinh thái, đặt ra vấn đề nghiên cứu mối quan hệ giữa con người và môi trường tự nhiên để nhận ra nguyên nhân của
tình trạng nói trên.
1.2. Sự xuất hiện của văn học sinh thái và phê bình sinh thái
không những nhằm cảnh tỉnh thái độ ứng xử
của con người với tự nhiên mà còn mở ra cách tiếp cận mới trong nghiên cứu văn học. Từ một phương pháp phê bình được ứng dụng trên thế giới, gần đây
lí thuyết này cũng bắt đầu được
giới nghiên cứu văn học ở Việt Nam áp dụng
và cho những thành tựu khả quan.
Các nhà nghiên cứu, phê bình văn học cho rằng đã có một
“khuynh hướng văn xuôi sinh thái Việt Nam sau năm 1975” [21] với quan điểm
tác phẩm sinh thái được nhận diện ở ba dấu hiệu: Thứ nhất, tác phẩm từ bỏ cái
nhìn mang tính ẩn dụ về tự nhiên để viết với
ý thức sinh thái; thứ hai, văn học sinh thái lấy tư tưởng “sinh thái là trung tâm”, tác phẩm viết về mối quan hệ
giữa con người và thiên nhiên phải có quan điểm sinh thái; thứ ba, cân
bằng tự nhiên cũng đảm bảo cho cân bằng xã hội,
đó là lí do vì sao văn học sinh thái tích hợp với các vấn đề xã hội: giới tính (sinh thái nữ quyền), chủng tộc,
giai cấp, xã hội (sinh thái hậu thực dân,
sinh thái xã hội, sinh thái chủ nghĩa Mác,…
1.3. Dĩ nhiên, văn học sinh thái không chỉ xuất hiện trong văn
xuôi mà còn xuất hiện cả trong thơ Việt Nam
đương đại. Bên cạnh nhiều nhà văn
xuôi quan tâm đến văn học sinh thái, chủ
đề sinh thái cũng được nhiều nhà thơ thể hiện hết sức sinh động. Trong số đó, Mai Văn Phấn là một
cây bút đáng chú ý. Đọc thơ Mai Văn Phấn, ta dễ bị cuốn
hút vào thế giới hình tượng thơ vừa gần gụi, tự nhiên vừa độc đáo. Bạn đọc cũng dễ nhận ra hai tuyến
hình ảnh – biểu tượng làm nên vẻ đẹp tượng trưng – siêu thực trong thế giới nghệ
thuật ấy: một – Con người và một – Thiên
nhiên. Cảm hứng sinh thái đến với nhà thơ không hề gò ép mà tự động chảy ra từ mạch nguồn trong sâu thẳm
nhân tâm.
Vì những lí do trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài luận
văn thạc sĩ của mình là: Thơ Mai Văn Phấn từ góc
nhìn phê bình sinh thái.
2.1. Khái lược về phê bình sinh thái
Trên thế giới, phê bình sinh thái được manh nha vào những năm 70 của thế kỉ trước
nhưng phải đến những năm 90 của thế kỉ
XX mới thực sự trở thành một khuynh hướng nghiên cứu văn học ở Mĩ và tiếp đó lan ra nhiều nước trên thế giới. Trong bài viết Những
tương lai của phê bình sinh thái và văn học, Karen Thornber
cho rằng phê bình sinh thái “khảo sát cặn kẽ những ngụ ý về môi trường sinh thái và quan hệ giữa con người – tự nhiên trong bất kì văn bản văn chương
nào, kể cả những văn bản (thoạt nhìn) dường như không để ý gì đến thế giới con người” [18]. Phê bình sinh thái ra đời đã bổ sung thêm một hướng tiếp cận văn chương và hứa hẹn đem lại những gợi ý khám phá về một phương diện mới mẻ của các tác phẩm văn học. Ở Việt Nam, từ sau năm 1986, giới nghiên cứu văn học đã cởi
mở hơn trong việc tiếp thu các luồng tưtưởng, học thuyết mới nhưng với phê bình sinh thái vẫn còn nhiều dè dặt. Năm 2012, khi viết bài Phê bình
sinh thái – khuynh hướng nghiên cứu văn học
mang tính cách tân Đỗ Văn Hiểu đã lí giải hiện tượng
này. Theo nhà nghiên cứu, nguyên nhân khiến phê bình sinh thái chưa thể phát triển mạnh ở Việt Nam là
bởi nó mang sự cách tân về tư tưởng nòng cốt, chuyển đổi từ tưtưởng “nhân loại trung tâm luận” sang
lấy “sinh thái trung tâm luận” làm nền tảng. Phê
bình sinh thái mang sứ mệnh mới là “nhìn nhận lại văn hóa nhân loại”. Nó có nguyên tắc mĩ học riêng,
xác lập đối tượng và phạm vi nghiên cứu riêng [13].
Những dẫn nhập về phê bình sinh thái được giới thiệu ở Việt Nam chủ yếu là qua các bài dịch của Hải Ngọc như Những tương lai của phê bình sinh thái và văn học, Đỗ
Văn Hiểu dịch bài Phê bình sinh thái – cội nguồn và sự phát triển phần
1, phần 2 từ bản tiếng Trung: Phê bình sinh thái Âu Mĩ, Nxb Học Lâm, 2008, và Phê bình sinh thái: Phát triển và nguồn
gốc, trong Tuyển tập
văn luận văn học sinh thái Trung quốc và thế giới, Nxb Đại học công Thương Triết Giang, 2010, Giáo sư Trần Đình Sử có bài Phê bình sinh thái tinh thần trong nghiên cứu văn học hiện nay. Ở bài viết của mình, GS Trần Đình Sử hướng
tới quan niệm vận dụng tư tưởng sinh thái để xem xét mối quan hệ giữa văn học và môi trường văn hóa, tinh thần xã hội [43]. Cùng quan điểm với giáo GS Trần Đình Sử, PGS.TS Trần Lê Bảo cũng có
bài viết Bàn về văn hóa sinh thái văn chương. Ông nhấn mạnh “nghiên cứu sinh thái văn chương cần có cái nhìn toàn diện và tổng
thể cả về sinh thái tự nhiên, sinh thái xã hội, lẫn sinh thái vật chất và sinh thái tinh thần. Đó là những
yếu tố quan trọng trong quá trình nghiên cứu
sinh thái văn chương” [51, tr.67].
Những bài viết trên là nguồn tư liệu quan trọng cho giới nghiên cứu Việt Nam vận dụng lí thuyết của phê bình sinh thái vào nghiên cứu
văn học. Bài tạp chí Thiên nhiên – Nguồn cảm
hứng bất tận của văn chương phương Đông [28] của Trần Thị Ánh Nguyệt cho rằng: Thiên nhiên có một địa
vị trung tâm trong tâm thức của người phương Đông từ xưa đến nay. Điều đó thể hiện ở tình yêu tha thiết với thiên nhiên trên mọi chủ đề. Nếu như văn học phương Tây luôn coi tự nhiên là nền cảnh để làm nổi bật con người thì trong văn học phương Đông, thiên nhiên là biểu tượng cơ bản để biểu hiện tâm hồn. Đó cũng là nơi mà con người vơi bớt những buồn phiền, hệ lụy của thế sự nhiêu khê. Văn học hiện đại phương Đông sau một giai đoạn phần nào bỏ rơi thiên nhiên đã quay trở lại với vấn đề thời sự - cần bảo vệ sinh
thái, sống cân bằng với tự nhiên mới có được hạnh phúc và yên ổn. Bài tạp chí Thiên nhiên trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư từ góc
nhìn phê bình sinh thái [27] của Trần Thị Ánh Nguyệt có viết: Theo Cheryll Glotfelty, phê bình sinh thái, nói một cách đơn giản nhất,
là nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và môi trường tự nhiên. Nó phản biện lại các lí thuyết khoa học nhân văn lấy “con người làm trung tâm” trước đó, để đề xuất cách nhìn nhận, tiếp cận “trái đất làm trung tâm”. Bài viết này muốn từ
tư tưởng cốt lõi đó để “đọc” truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư. Từ góc nhìn ấy, nhà văn đã đặt ra một cách trực diện những vấn đề môi trường và số phận của con người trong thời đại khủng hoảng môi
sinh. Đồng thời tác giả cũng đề xuất một cách lắng nghe tiếng nói từ tự nhiên để tìm cho ra câu trả lời
cho những khủng hoảng của con người thời hiện đại và đề xuất một thái độ sống gần gũi tự nhiên để được
chia sẻ và thanh thản. Từ những bài viết mang tính khám phá, khai mở như Thơ
mới từ góc nhìn sinh thái học văn hóa của
PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp đến những nghiên cứu
chuyên sâu như Con người và tự nhiên trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 từ góc nhìn phê bình sinh
thái của Trần Thị Ánh Nguyệt hay Rừng khô, suối cạn, biển độc…và văn
chương của Nguyễn Thị Tịnh Thy,… phê bình sinh thái
đã trở thành một hướng tiếp cận tác phẩm văn học mới mẻ, hấp dẫn và lí thú. Cuối năm 2017, ấn phẩm Phê bình sinh thái là gì? do
Hoàng Tố Mai chủ biên, Đặng Thị Thái Hà, Lê Quốc Hiếu,
Phạm Phương Chi,... dịch và tổng thuật những bài viết về phê bình sinh thái của các học giả
quốc tế nơi khởi nguyên phê bình sinh thái như Phê bình sinh thái trong bối cảnh khủng hoảng môi trường toàn cầu (Kate
Rigby), Những môi trường sinh thái, những mơ hồ về môi trường và các nền văn học (Karen Laura Thornber),… Và Viện văn học chủ trì hội thảo khoa học quốc tế mang tên Phê bình
sinh thái: Tiếng nói bản
địa, tiếng nói toàn cầu cùng với đó kỉ yếu
của hội thảo được in ấn với hơn một ngàn trang sách của hàng trăm tham luận của các học
giả trong và ngoài nước thì phê bình sinh thái thực sự đã trở nên quen thuộc đối
với ngành nghiên cứu, lí luận và phê bình văn học ở Việt Nam. Phê
bình sinh thái cũng đến gần hơn với độc giả quan tâm tới
văn học nước nhà.
2.2. Những nghiên cứu về thơ Mai Văn Phấn
2.2.1. Nghiên cứu chung về sáng tác
của Mai Văn Phấn
Mai Văn Phấn là gương mặt đã dần trở nên quen thuộc với bạn đọc yêu thơ đương đại Việt Nam và thế giới. Tên
tuổi của ông được ghi nhận qua những giải thưởng văn học có giá trị cả ở trong nước và quốc tế, như: giải thưởng “Cuộc thi thơ” tuần báo Người Hà Nội năm 1994, giải thưởng “Cuộc thi
thơ” tuần báo Văn nghệ (Hội Nhà văn Việt Nam) năm 1995, giải thưởng Văn học Nguyễn Bỉnh Khiêm (Hải Phòng) các năm 1991, 1993, 1994,
1995, giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2010 (cho tập thơ “Bầu trời
không mái che”), giải thưởng văn học Cikada Thụy Điển năm 2017. Ở Việt Nam, Mai Văn Phấn đã xuất bản 15 tập thơ, một cuốn sách, phê bình –
tiểu luận. Ông có 14 tập thơ xuất bản ở nước ngoài. Thơ ông đã được dịch ra 24 thứ tiếng trên thế giới, xuất hiện trên hơn 50 tuyển tập thơ và tạp chí quốc tế.
Có thể nói, với bút lực ấy Mai Văn Phấn đã tạo dựng cho
mình một phong cách mới mẻ, đa dạng nhưng cũng không kém phần phức tạp.
Thơ ông đang thu hút sự quan tâm của nhiều độc giả cùng các nhà nghiên cứu, phê bình văn học.
Đầu tiên phải kể đến là chuyên luận Mai Văn Phấn và hành
trình thơ vào cõi khác của Ngô Hương
Giang, Nguyễn Thanh Tâm. Tác phẩm chính là sự phát triển một khoa nhân học vi mô từ hướng tiếp cận văn hóa và văn học thông qua một trường hợp cụ thể là Mai Văn Phấn và thơ của ông. Qua đó, tác phẩm làm hiện lên một cách sống động gia tài thơ cũng nhưngười thơ Mai Văn Phấn trong dòng chảy thơ Việt Nam đương đại.
Trong bài viết Mai Văn Phấn – những chặng đường sáng tạo
thơ, PGS. TS. Đào Duy Hiệp đánh giá Mai Văn
Phấn là nhà thơ đã đạt được quá trình chinh phục, khám phá sáng tạo, cách tân thơ ca bằng việc để
lại cột mốc đáng ghi nhớ trong suốt ba mươi năm kiên trì, miệt mài và không có điểm dừng [11]. Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên viết trong bài Thơ
là ngôi lời cũng có nhận định khái quát về thơ
ca của Mai Văn Phấn nhưsau: Mai Văn Phấn ngay từ đầu đã muốn tạo nên sự mới khác trong sự nghiệp
sáng tác của mình. Sự mới khác ấy được thể hiện lần đầu và khá rõ ràng là trong việc cách tân những câu thơ lục bát. Những câu thơ lục bát truyền thống
được cách tân đã báo hiệu một Mai Văn Phấn đầy bản lĩnh, đầy sức khám phá
và khá là chững chạc trong việc cách tân, sáng
tạo. Mai Văn Phấn đã từng bước
thể hiện sự mãnh liệt, nhẫn nại, quyết
tâm trong việc khai sơn, mở lối vào “ngõ ngách tâm hồn mình và những thế trận, ma trận chữ” [26].
Tác giả Nguyễn Thanh Tâm nhận định về Mai Văn Phấn trong Lập
thể của ký ức và tưởng tượng xuyên qua
Bầu trời không mái che rằng Mai Văn Phấn có sức quyến luyến người đọc bằng cấu trúc ngôn từ thơ, sự biểu hiện của hình ảnh, ngôn từ chứ không phải bằng sự mượt mà, du dương
của vần điệu. Tác giả Nguyễn Thanh Tâm gọi
đó là “những lập thể của ký ức và tưởng tượng” [44].
Ngoài ra, một số những tài liệu nhưbài tạp chí Mai Văn Phấn, kết thúc cho một khởi đầu của
Inrasara, Mai Văn Phấn và khúc biến tấu Hôm sau của Đặng Văn Sinh, Lộ trình thơ Mai Văn Phấn của Dương Kiều Minh, và Dấu ấn chủ nghĩa siêu thực trong thơ Mai Văn Phấn của Nguyễn Thị Thùy Trang… cũng đã đi tìm hiểu về lộ trình thơ và đặc trưng thơ của Mai Văn Phấn.
Trong Xóa nhòa ranh giới giữa
thơ ca và văn xuôi trong thơ văn xuôi của Mai Văn Phấn, nhà
nghiên cứu phê bình văn học Nguyễn Ngọc Thiện đã khẳng định rằng thơ Mai Văn Phấn đã có sự phân biệt với những
sáng tác của thế hệ đi trước. Thơ văn xuôi của Mai Văn Phấn mạnh về việc tổ chức ý tưởng và ngôn từ, sự tổ chức ấy khá
là chặt chẽ, không bị dàn trải theo trục tuyến tính mà là sản phẩm của những “cơn xoáy của miền cảm
xúc ám ảnh”, dòng tâm tư tranh biện. Ở đó có sự đan xen giữa hiện tại và quá khứ, giữa đương đại và tương lai giữa các mặt đối lập, chồng lấn... Thơ văn xuôi Mai Văn Phấn gần với biểu hiện của dòng thơ ca tượng trưng,
biểu tượng. Nguyễn Ngọc Thiện còn cho rằng thơ Mai Văn Phấn bộc lộ tham vọng của
nhà thơ đi tìm kiếm quyền lực tối thượng để tạo ra một cấu trúc văn bản mới lạ, sử dụng mọi cách sáng tạo ngay từ câu từ, con chữ. Mai Văn Phấn sử
dụng khá nhuần nhuyễn những đặc điểm nghệ thuật của
thơ ca truyền thống, tượng trưng, siêu thực,
hiện đại, hậu hiện đại. Thơ văn xuôi của Mai Văn Phấn ẩn chứa tiềm tàng những năng lực của sự gợi mở, khơi gợi sự tri âm, đồng
điệu, đồng cảm của người đọc [45].
Bài viết Cách tân, như là đẩy thơ vượt qua tai họa của
nhà thơ Thi Hoàng có đoạn nhận xét về thơ cách
tân của Mai Văn Phấn rất đáng chú ý.
Nhà thơ Mai Văn Phấn đã thành công khi sử dụng sự mạo hiểm
trong việc cách tân thơ ca, bỏ qua những khó
khăn, chông gai, sự đơn độc. Thơ cách tân của Mai Văn Phấn xông xáo đi vào những con đường ít người
đi, mạnh dạn thể nghiệm những cách mà ít người thể nghiệm. Điểm mạnh của việc cách tân thơ ca của Mai Văn Phấn là ông đã vận dụng tối đa những đặc
điểm về nội dung và hình thức của thơ ca để
nâng tầm người đọc và tìm ra thi pháp của bản thân [14].
Viết bài Thơ tạo sinh nghĩa Mai Văn Phấn, PGS. TS. Hồ
Thế Hà đã đưa ra nhận định về thơ Mai Văn Phấn là một hiện tượng độc đáo của thơ ca đương đại Việt Nam. Mai Văn Phấn luôn
ý thức cách tân thi ca trong từng bài thơ ông sáng tác. Thơ của ông muốn đi tới hướng phủ định chính mình trong mỗi lần sáng tác để cho những sáng tác của mình luôn mới mẻ.
Thơ Mai Văn Phấn luôn tạo sinh ý nghĩa, điều đó
làm cho thế giới thơ ông luôn vận động và không ngừng đổi thay[9].
Trong Mai Văn Phấn trong “vòng xoáy” của thơ hậu – hiện
– đại nhà thơ Nguyễn Việt Chiến từng chỉ rõ
Mai Văn Phấn chính là một nhà thơ đang thường xuyên tự đổi mới thơ mình, phá
vỡ các lối mòn để thể nghiệm và thực nghiệm những khám phá, sáng tạo mới mẻ. Nguyễn Việt Chiến khái
quát con đường sáng tác của Mai Văn Phấn như sau “Từ trữ tình cổ điển, anh bay thẳng một mạch vào hậu hiện đại rồi từ đó lao vào vòng xoáy
đầy ấn tượng của thơ cách tân” [2].
Cuốn sách Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn khác biệt và
thành công [20] của Đình Kính đây là cuốn sách không chỉ giới thiệu về
cuộc đời, phong cách của hai nhà thơ đương đại là Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn mà còn đi đối chiếu so sánh phong cách thơ ca của hai nhà thơ
này. Từ đó, tác giả Đình Kính đưa ra những nhận xét rất xác thực và sắc sảo về diện mạo thơ
ca của hai nhà thơ tiêu biểu của thơ
ca Việt Nam đương đại. Hơn nữa, tác giả Đình Kính cũng nhận xét, đánh giá sự thành công của hai nhà thơ và tìm ra nguyên nhân để lý giải sự thành công đó.
Bài viết Mai Văn Phấn với Hôm sau & và đột nhiên gió
thổi [39] của Vĩnh Phúc là lời giới thiệu với độc
giả hai tập thơ của Mai Văn Phấn đó là Hôm sau, và đột nhiên gió thổi. Ở đây, tác giả Vĩnh Phúc vừa thể hiện sự cảm thụ về nội dung, nghệ thuật của hai tác phẩm để đưa ra các lời gợi dẫn độc giả vừa thể hiện sự đúc kết của bản thân về đặc điểm phong cách
thơ ca của tác giả Mai Văn Phấn.
Nhìn chung, về sự nghiệp, phong cách, đặc điểm thơ Mai Văn
Phấn đều đã được các học giả, học viên, bạn đọc tìm hiểu, nghiên cứu từ
nhiều phương diện. Các tác giả đã chỉ ra những thành công chủ yếu về các
phương diện nội dung, nghệ thuật và đặc biệt là sự cách tân mới mẻ của ngòi
bút Mai Văn Phấn. Tuy nhiên, nếu tiếp cận tác
phẩm của Mai Văn Phấn từ góc nhìn lý thuyết phê bình mới, sẽ có được cái nhìn khách quan và toàn diện hơn.
2.2.2. Về chủ đề sinh thái trong
thơ Mai Văn Phấn
Tiếp cận và nghiên cứu về thơ của
Mai Văn Phấn từ góc nhìn phê bình sinh thái, cho đến nay chưa có công trình nào đề cập một cách có hệ thống và chuyên sâu. Tuy còn ít ỏi nhưng vấn đề về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên
trong sáng tác của Mai Văn Phấn đã được một số tác giả đề cập tới trong một số bài nghiên cứu, khảo sát về thơ của ông. Khi tìm hiểu về Đặc trưng thế giới nghệ thuật thơ Mai
Văn Phấn PGS.TS Lê Hồ Quang đã nhận ra rằng
“những hình tượng như mùa màng, đất đai, cánh đồng, sự gieo trồng, sinh nở,… - chúng có một sức hút lạ
thường với nhà thơ, cho dù ông hoàn toàn không phải kiểu tác giả “chân
quê” thường thấy. Không đơn thuần là biểu trưng của nền văn minh lúa nước hay những giá trị văn hóa cổ truyền, với Mai Văn Phấn, chúng tượng trưng
cho sự sống phồn thực, bất tận, vĩnh hằng của
thế giới” [40]. Đây thực sự là một phát hiện có ý nghĩa.
Nhã Thuyên trong tham luận Khí quyển thơ – sinh thái của
Mai VănPh ấn: Thơ, bầu trời và những linh hồn
tại hội thảo “Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn, khác biệt và thành công” nhận định: “Không
khó nhận ra mối quan hệ mật thiết giữa thơ và sinh
thái trong thơ Mai Văn Phấn, không khó cảm nhận Mai Văn Phấn là nhà thơ – tình nhân đích thực của thiên
nhiên nhưng điều tôi muốn nhấn mạnh là, ở mỗi nhà thơ, mỗi thế hệ
thơ, mỗi truyền thống thơ ca, mỗi thời đại, mối
quan hệ giữa con người và môi trường sinh thái
lại có những nét khác biệt cần khám phá. Chính bởi thế, việc tiếp cận từ góc độ phê bình sinh thái ở trường hợp thơ Mai Văn Phấn, không phải chỉ là một mối quan tâm về không gian nhưmột yếu tố nổi trội của thơ anh, mà còn là một cách tra vấn mối quan hệ giữa thơ ca và tự nhiên tưởng nhưyên ổn trong truyền thống thơ Việt Nam và thơ phương Đông” [48].
Phạm Xuân Nguyên thì khám phá ra trong thơ Mai Văn Phấn có
hai hình tượng chứa đựng nhiều cảm xúc, đó là “Ban mai và ngọn lửa”.
“Thơ Mai Văn Phấn nhiều những ban mai. Cái
nguyên sơ, trong trẻo của buổi ban ngày, khi bóng đêm qua ánh sáng tới, mang ý nghĩa khải thị, hồi sinh. Cảm hứng
thơ Mai Văn Phấn đi từ ban mai đến những
sự nở sinh, phát triển, đến sự hòa đồng, hài hòa của vũ trụ thiên nhiên con người. Nỗi khát ban mai là nỗi khát thường trực trong thơ anh”. Nguyễn Việt Chiến gọi Mai Văn Phấn là Người tụng ca
thiên nhiên bằng tình yêu mật rót. Trong cảm nhận của nhà thơ Nguyễn Việt Chiến, “thiên nhiên hiện hữu trong thơ Mai Văn Phấn với những giác độ huyền
ảo và sinh động của một đời sống ngôn ngữ giàu
hình tượng lập thể, luôn khơi gợi vẻ đẹp thuần khiết của nhục cảm và thân xác trong một thế giới
mê hoặc tình yêu được hiến dâng và sáng tạo” [3].
PGS.TS Đào Duy Hiệp trong Mai Văn Phấn – những chặng đường
sáng tạo thơ phát hiện thấy thơ Mai Văn Phấn có những “ẩn dụ ám ảnh” về
cỏ và nước. Còn Nguyễn Tham Thiện Kế thì tuyển và giới thiệu Mai
Văn Phấn và 101 câu thơ về cỏ. Văn Giá trong Thơ sinh ra để nói niềm hy vọng của con người khẳng định:
“Toàn bộ thơ Mai Văn Phấn đã dựng lên một thế giới phồn sinh và hóa sinh bất định”. “Trong rất nhiều thi ảnh bề bộn
ở thơ Mai Văn Phấn, có ba hình ảnh cô đọng nhất,
chụm nhất, nên trở thành tiêu biểu nhất: Đất đai, Ánh sáng và Người tình (được gọi là “em”). Cả ba hình ảnh này
đều nằm trong sự quy chiếu của lẽ phồn
sinh và hóa sinh bất định với tất cả sự sống động của chúng” [6].
Nhìn chung, vấn đề sinh thái trong
sáng tác của Mai Văn Phấn chỉ được đề cập khá sơ lược trong một số nghiên cứu, tham luận. Theo khảo sát của chúng tôi, chưa có một nghiên cứu nào đi sâu tìm hiểu vấn đề trên một cách có hệ thống và toàn diện. Thực tế, có một nguồn mạch sinh
thái khi âm thầm, khi lặng lẽ chảy trong thơ Mai Văn
Phấn. Đó là điều trăn trở của ông từ khi viết Giọt nắng, Gọi xanh,... Điều này tạo điều kiện
thuận lợi để chúng tôi triển khai
đề tài nghiên cứu: Thơ Mai Văn Phấn từ góc nhìn phê bình sinh thái.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ
nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài Thơ Mai Văn Phấn
từ góc nhìn phê bình sinh thái chúng tôi hướng đến những mục đích sau:
- Khám phá những đặc sắc của thơ Mai Văn Phấn từ một phương pháp tiếp
cận mới mẻ - phê bình sinh thái.
- Chỉ ra những cái mới và đóng góp của Mai Văn Phấn trong
dòng văn học sinh thái.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn này, chúng
tôi sẽ thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Làm sáng tỏ các khái niệm lí luận liên quan về phê bình
sinh thái và thực tế nghiên cứu văn học từ góc độ
phê bình sinh thái ở Việt Nam. Hành trình sáng tạo của nhà thơ Mai Văn Phấn.
- Làm rõ mối quan hệ giữa môi trường sinh thái và con người trong thơ Mai Văn Phấn.
- Giải mã các kí hiệu sinh thái trong thơ Mai Văn Phấn từ
góc nhìn văn hóa, tôn giáo để lí giải nguồn gốc,
nguyên nhân của tưtưởng sinh thái trong thơ Mai Văn Phấn.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung tìm hiểu, phân
tích và làm sáng tỏ những đóng góp của thơ trữ tình Mai Văn Phấn từ góc nhìn của lí thuyết phê bình
sinh thái qua việc nghiên cứu hình tượng thiên nhiên, mối quan hệ giữa môi trường tự nhiên
và con người trong thơ của Mai Văn Phấn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Tìm hiểu các tài liệu về phê bình
sinh thái.
- Mai Văn Phấn là một cây bút tài năng đã khẳng định được vị trí của mình trên thi đàn Việt Nam đương đại cũng nhưtrong
lòng công chúng yêu thơ. Ông được ghi nhận trên cả hai mảng thơ trữ tình và thơ văn xuôi.
Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi tập trung khảo
sát thơ trữ tình của Mai Văn Phấn. Luận văn xác định phạm vi nghiên cứu cụ thể là nội dung, nghệ thuật
thể hiện vấn đề sinh thái trong những
sáng tác của Mai Văn Phấn, cụ thể là trong những tập thơ đã xuất bản của Mai Văn Phấn.
Bên cạnh đó, luận văn còn tham khảo, nghiên cứu thêm các
tài liệu văn học về con người, sự nghiệp, phong cách của Mai Văn Phấn, đặc điểm thơ Mai Văn Phấn.
Hơn nữa, những tài liệu có tính học thuật chuyên sâu về phê
bình sinh thái, những bài báo, tạp chí, phỏng
vấn… những tài liệu được kể đến ở phần Lịch sử nghiên cứu vấn đề cũng góp phần định hình phạm vi nghiên cứu của luận văn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn “Thơ Mai Văn Phấn từ
góc nhìn phê bình sinh thái” sử dụng nhiều phương pháp để thực hiện mục tiêu
nghiên cứu đặt ra, trong đó có thể kể đến những phương
pháp nghiên cứu chính như sau:
Phương pháp loại hình học: Nghiên cứu thơ của Mai Văn Phấn, chúng tôi căn cứ những đặc trưng cơ bản của lí thuyết phê bình sinh thái để chỉ ra những đặc điểm chung của thơ ông, đồng thời làm rõ những
nét riêng, độc đáo.
Phương pháp hệ thống: Những
bài thơ của Mai Văn Phấn là sự thể hiện của lối suy tưởng,
cảm xúc định hình phong cách của tác giả. Tư tưởng và phong cách của tác giả sẽ được thể hiện qua hầu hết những chi tiết về nội dung cũng nhưcấu
tứ của tác phẩm. Vì vậy, rõ ràng là trong một tác phẩm, những đặc trưng về
tưduy nghệ thuật của tác giả có thể sẽ
không tập trung vào một phần nào nhất định mà thường là biểu hiện qua tất cả các phần và tạo nên một hệ thống. Phương pháp hệ thống được sử dụng nhằm tập hợp những yếu tố tương đồng của những chi tiết nhưngôn ngữ, nhân vật, hình ảnh, thủ pháp nghệ thuật, cấu trúc... để đưa ra những kết luận về đặc điểm của tác phẩm.
Phương pháp thi pháp học: Nội dung, ý nghĩa của các sáng tác thơ Mai Văn Phấn được
thể hiện thông qua tưtưởng sinh thái mang nghĩa. Chúng tôi tiếp cận thơ của Mai Văn Phấn dựa trên các dấu hiệu hình thức
độc đáo của phê bình sinh thái, từ đó khám phá
ý nghĩa bên trong, tưtưởng sinh thái ẩn sau mỗi hình thức (quan niệm về con người – tự nhiên, tự nhiên – văn học). Nhận diện khuynh hướng thơ sinh thái bên cạnh khuynh hướng văn xuôi sinh thái đã được các nhà nghiên cứu khẳng định.
Phương pháp liên ngành: Chúng tôi dùng phương
pháp này để liên kết văn học với lí thuyết phê bình
sinh thái nghĩa là sinh thái học nhân văn, từ đó đáp ứng nhu cầu giải quyết vấn đề của thực tiễn văn học, vấn
đề sinh thái hiện nay.
Phương pháp văn hóa học: Chúng tôi đặt các sáng tác thơ ca của Mai Văn Phấn trong nghiên cứu lí thuyết phê bình sinh thái liên
hệ với văn hóa, tôn giáo nhằm hiểu sâu sắc hơn ý
nghĩa của các tác phẩm và lí giải nguồn gốc hình thành của lí thuyết phê bình sinh thái, phân tích biểu hiện
và thông điệp toát lên từ lí thuyết phê bình sinh
thái qua các tập thơ của Mai Văn Phấn.
Phương pháp thống kê: Tác
giả luận văn dùng phương pháp thống kê để khảo sát định lượng những chi tiết về nội dung cũng nhưhình thức thể hiện trong những tác phẩm của Mai Văn Phấn. Việc thống kê những
chi tiết như vậy giúp cho tác giả luận văn nhận
diện được đặc điểm mang tính hệ thống trong tưtưởng cũng nhưnghệ
thuật của đối tượng nghiên cứu.
6. Giả thuyết khoa học
6.1. Về phương diện khoa học
Luận văn là công trình đầu tiên
nghiên cứu thơ trữ tình của Mai Văn Phấn từ góc nhìn của lí thuyết phê bình sinh thái, do đó, kết quả
nghiên cứu của luận văn sẽ góp thêm một nét vẽ,
một mảng màu trong bức tranh đang dần hoàn thiện về thơ Mai Văn Phấn. Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ đem đến một diễn giải mới
về thơ của tác giả Mai Văn Phấn, chỉ ra những
đóng góp đặc biệt của ông ở mảng văn học sinh thái.
6.2. Về phương diện thực tiễn
Do tính cấp thiết và giá trị nhân
văn sâu rộng, vấn đề môi sinh đã trở thành một nội dung trong chương trình dạy học tích hợp ở nhà trường phổ thông.
Mặc dù thơ Mai Văn Phấn chưa được đưa vào chương trình Ngữ văn của cấp học này nhưng đề
tài nghiên cứu phần nào xác lập một hướng tiếp cận các tác phẩm văn học trong chương trình Ngữ văn của nhà trường phổ thông từ cái nhìn sinh thái. Đề tài góp phần nâng cao nhận thức của
con người, nhất là thế hệ trẻ về trách nhiệm bảo vệ môi trường sinh thái, giáo dục lối ứng xử nhân văn với môi trường sống xung quanh.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mục lục, Mở đầu, Kết luận,
Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung chính của luận văn bao gồm 3 chương, cụ thể là:
Chương 1. Khái lược về phê bình sinh thái và hành trình sáng tạo của nhà thơ Mai Văn Phấn
Chương 2. Sinh thái trong thơ Mai Văn
Phấn qua các biểu tượng cơ bản
Chương 3. Sự hài hòa giữa con người và tự nhiên: sự thức tỉnh của đạo đức sinh thái
Chương 1
KHÁI LƯỢC VỀ PHÊ BÌNH SINH THÁI VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO CỦA NHÀ THƠ MAI VĂN PHẤN
1.1. Khái lược về phê bình sinh thái
1.1.1. Khái niệm phê bình sinh thái
Phê bình sinh thái là một thuật ngữ không mới
trên văn đàn thế giới, nhưng có lẽ còn mới trên văn đàn Việt Nam. Nhà phê bình
William Rueckert đánh giá “sinh thái học (như là một khoa học, như một quy tắc,
như cơ sở cho tầm nhìn của con người) thích đáng nhất đối với hiện tại và tương
lai của thế giới” [41]. Nhà phê bình sinh thái hàng đầu Cheryll Glotfelty: “Phê
bình sinh thái là phê bình bàn về mối quan hệ giữa văn học và tự nhiên… Phê
bình sinh thái mang đến phương pháp tiếp cận trái đất là trung tâm
(earth-centered approach) để nghiên cứu văn học” [12]. Theo Vương Nặc, “Văn học
sinh thái là loại văn học lấy chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái làm cơ sở tư tưởng,
lấy lợi ích chỉnh thể của hệ thống sinh thái làm giá trị cao nhất để khảo sát
và biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và truy tìm nguồn gốc xã hội
của nguy cơ sinh thái” [41].
Theo những quan điểm đó, phê bình sinh thái
là một sự kết hợp giữa văn học và khoa học tự nhiên, những vấn đề nhân văn,
nghệ thuật với những vấn đề vật lí, sinh học, địa lý. Phê bình sinh thái “tiếp
cận trái đất làm trung tâm để nghiên cứu văn học”, và “nghiên cứu mối quan hệ giữa
văn học và môi trường vật lí” [8]. Serpil Oppermann nhận định rằng, “phê bình
sinh thái chủ yếu tập trung vào cách văn học tương tác và tham gia vào toàn bộ
sinh quyển”. Điều đó có nghĩa là nhà phê bình sinh thái dùng việc phân tích văn
học để thẩm định lại những hành xử xuất phát từ văn hóa, tư tưởng, phong tục tập
quán trong quá trình phát triển của nhân loại đã ảnh hưởng đến tự nhiên như thế
nào, đẩy môi trường vào tình trạng tồi tệ ra sao? Phê bình sinh thái còn cần
thiết phải “làm lộ ra một cách có tính lịch sử văn hóa ảnh hưởng như thế nào
đến sinh thái địa cầu” [7]. Có như vậy, phê bình sinh thái mới tác động đến nhận
thức của con người, thay đổi cách nhìn và ứng xử của chúng ta đối với giới tự
nhiên, tất cả vì một môi trường thân thiện, xanh sạch. Nhiều nước trên thế giới
như Anh, Mỹ, Úc, Nhật Bản, Trung Quốc... đã đón nhận lý thuyết này rất nhiệt
tình vì tính nhân văn của nó. Một trong những chủ trương của phê bình sinh thái
là: “tiến hành đọc lại các tác phẩm trong quá khứ, tìm ra ý nghĩa sinh thái tiềm
ẩn trong đó, tất nhiên, cũng bao hàm việc chỉ ra những hạn chế của nó trong tương
quan với chỉnh thể sinh thái. Như vậy, sẽ góp phần bổ sung cho những khuyết thiếu
trong lịch sử nghiên cứu văn học nhân loại” [13].
Về ý nghĩa của phê bình sinh thái, Vương Nhạc
Xuyên đánh giá cao khả năng riêng của các tác phẩm văn học sinh thái trong việc
giải quyết các tai nạn toàn cầu: “Theo tôi, cái gọi là văn học sinh thái chủ yếu
là chỉ những tác phẩm mẫn cảm góp phần phơi bày nguy cơ sinh thái thế giới hiện
đại, phê phán quan điểm giá trị chủ nghĩa nhân loại trung tâm, phản tỉnh đối với
nền văn minh hiện đại dẫn đến nguy cơ sinh thái. Văn học sinh thái không coi
con người là trung tâm của thế giới tự nhiên, cũng phản đối coi lợi ích của con
người là thước đo tuyệt đối phán đoán giá trị tự nhiên” [52].
Về một số đặc trưng tiêu biểu của phê bình
sinh thái, Grey Garrard trong Phê bình
sinh thái (thuật ngữ phê bình mới) (Ecocriticism
(The New Critical Idiom) đề cập
đến diễn ngôn chủ yếu của phê bình
sinh thái từ tám phương diện như: ô
nhiễm, nơi chốn, điền viên, hoang dã, tận thế, cư trú, động vật, trái đất. Greg
Garrad cho rằng: “Vấn đề môi trường không chỉ cần phân tích từ góc độ khoa học,
mà còn cần phân tích từ góc độ văn hóa” [8]. Sứ mệnh của phê
bình sinh thái là nghiên cứu tư tưởng, văn hóa, khoa học, phương thức sống và phương
thức sản xuất, mô hình phát triển xã hội của con người đã ảnh hưởng như thế nào
đến hiện tượng xấu đi của môi trường tự nhiên, đã dẫn đến nguy cơ sinh thái như
thế nào. Từ đây có thể thấy, phê bình sinh thái là một khuynh hướng nghiên cứu
mang đậm tinh thần phê phán văn hóa. Phê bình sinh thái muốn hướng đến cải cách
văn hóa tư tưởng, thúc đẩy cách mạng phương thức sống, phương thức sản xuất, mô
hình phát triển, xây dựng văn minh sinh thái. Tuy nhiên, bất kì phương pháp
nghiên cứu nào cũng đều có những quy tắc và chuẩn mực nhất định. Để khám phá
văn chương qua góc nhìn phê bình sinh thái, trước hết cần phải định giá “lối viết
tự nhiên” theo bộ chuẩn quy tắc mà Lawrence Buell đã khảo sát và cung cấp. Theo
đó, một tác phẩm được cho là viết theo định hướng môi trường sẽ mang những nội
dung chính như sau:
“1. Môi trường phi nhân không còn chỉ được
nhìn đơn thuần như là một thứ công cụ làm khung nền cho sự xuất hiện của con người,
ngược lại, sự hiện diện của nó cho thấy lịch sử nhân loại bao giờ cũng có mối
liên hệ chặt chẽ với lịch sử tự nhiên […]
2. Mức
độ quan tâm của con người đối với môi trường là một phần thuộc giá trị đạo đức
của mỗi văn bản. […]
3. Theo
một nghĩa nào đó, môi trường được nhìn thấy như một quá trình, chứ không phải
là một hằng số bất biến hay ít nhất, được cho là một thông
điệp ẩn giấu đằng sau tác phẩm. […]” [19].
Bộ chuẩn quy tắc này đã trở thành thước đo giá trị của tác phẩm văn học
sinh thái.
1.1.2. Lịch sử phê bình sinh thái
1.1.2.1. Cội nguồn triết học
của phê bình sinh thái
Phê bình sinh thái (ecocritisim) còn được gọi bởi những cái tên khác như
“phê bình (văn hóa) xanh” (green (cultural) studies), “thi pháp sinh thái” (ecopoetics) hay “phê bình văn học môi trường” (environmental
literary criticism). Tên gọi phê bình sinh thái do Wiliam Rueckert sử dụng vào
năm 1978 trong khảo luận “Văn học và sinh thái học: một thử nghiệm mới trong
phê bình sinh thái” (Literature and Ecology: An Experiment in Ecocritism).
Nói đến nguồn gốc tư tưởng của phê bình sinh
thái, có thể nhắc đến những sự phản biện của phê bình sinh thái với những lối
nhận thức, hay tư tưởng vốn có. Nhận thức về văn hóa sinh thái sau đây đã trở thành
khuynh hướng phổ biến trong những năm đầu thế kỉ XXI: “Rất nhiều người phương Tây
ngày nay nhận thức được hạn chế (biduan) của phương thức sinh tồn “thục mạng sản
xuất, thục mạng tiêu dùng”, trong giai cấp trung tư sản lặng lẽ dấy lên “cuộc sống
giản đơn” - chuyển nhà về nông thôn, tự đóng nhà gỗ, không sử dụng quá nhiều
máy điện, kiếm “thu nhập” có hạn, ra sức hưởng thụ không khí, ánh nắng trong đại
tự nhiên. Các nhà xã hội học cho rằng: “cuộc sống giản đơn quay trở về với cái
thuần phác chân chất, về với tự nhiên, “ít chính là nhiều” (less is more),
trong thế kỉ XXI phải trở thành không khí phổ biến. Có lẽ cuộc sống giản đơn,
tiêu dùng giản đơn cũng chính là cuộc sống mộc mạc cuối đời của Tolstoi có thể
sẽ lại thể hiện sức hấp dẫn của tinh thần” [52]. Thêm vào đó, phê bình sinh
thái phê bình thư tưởng con người là trung tâm vũ trụ của văn hóa phương Tây. “Phê
bình sinh thái ảnh hưởng từ tư tưởng sinh thái học bề sâu (Deep ecology), một
triết lí sinh thái và môi trường hiện đại tôn trọng sự tồn tại bình đẳng của tạo
vật, mọi sinh vật trong hệ thống khong có loài nào ở thế ưu trội. Tư tưởng này
bác bỏ quan niệm “con người là trung tâm” bám rễ sâu trong văn hóa phương Tây”
[27].
Từ đó, cội nguồn của phê bình sinh thái có thể
kể đến là hai luồng tư tưởng tiến bộ của cả phương Tây lẫn phương Đông như sau:
Một là tư tưởng chỉnh thể sinh thái của văn hóa phương Tây. “Tư tưởng hạt nhân
của phê bình sinh thái là Chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái (ecological holism), có
quan niệm hài hòa, tương hỗ, hệ thống của sinh thái học, từ
tư tưởng sinh thái của Engels, Darwin, từ triết học sinh thái của Heidergger, từ
triết học sinh thái chỉnh thể luận đương đại...” [13]. “Tư tưởng hạt nhân của
chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái là coi lợi ích của chỉnh thể của hệ thống sinh
thái là giá trị cao nhất; lấy sự có ích hay không có ích đối với việc bảo vệ,
duy trì hoàn chỉnh, hài hòa, ổn định, cân bằng sinh hệ thống sinh thái làm thước
đo, tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá sự phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế
và tiến bộ khoa học kĩ thuật cũng như phương thức sống của nhân loại” [13]. Hai
là tư tưởng thiên nhân hợp nhất của văn hóa phương Đông. “Thiên nhân hợp nhất” –
tư tưởng Chu Dịch đã trở thành tiền đề cơ bản trong cách ứng xử, nguồn cảm hứng
vô tận của văn chương phương Đông” [28]. Lão Tử cho rằng con người gắn chặt với
tự nhiên là bộ phận không tách rời tự nhiên, đều do Đạo sinh ra, là biểu hiện của
Đạo, do vậy trời đất với ta cùng sinh ra, vạn vật với ta là một. Tự nhiên có trước
con người, tồn tại và vận động theo quy luật khách quan, con người theo quy luật
của tự nhiên để hành động cho hợp lẽ. Bởi vậy người phương Đông thường lựa chọn
cách sống hài hòa với tự nhiên để được thanh thản, đủ đầy. Các anh hùng trong sử
thi Ấn Độ (Ramayana, Mahabharata) trước
khi lên ngai vàng đều có những chuyến hành hương về với tự nhiên. Trước khi
giác ngộ, Phật Tổ đã trải qua nhiều kiếp sống không chỉ là con người, thần linh
mà còn là chim chóc, muôn thú để có thể hiểu về cuộc đời của muôn loài bình thường,
với đủ loại quan hệ thế tục. Nhà vua Trần Nhân Tông khi đã hoàn thành nhiệm vụ thế
sự đã xuất gia vào núi sâu để trong sạch hóa, để giác ngộ thành Phật Hoàng.
Phê bình sinh thái còn lấy thẩm mỹ sinh thái
làm nguyên tắc mỹ học riêng. Mỹ học sinh thái là thống nhất hài hòa giữa con người
và tự nhiên, con người và xã hội, con người và bản thân chứ không phải là con
người chiếm hữu, chinh phục và cải tạo tự nhiên. Thẩm mỹ sinh thái là thẩm mỹ
mang tính tự nhiên, không phải là sự trừu tượng hóa trên cơ
sở kinh nghiệm thẩm mỹ cụ thể. Trong thẩm mỹ sinh thái không tồn tại quan hệ chủ
thể - khách thể, con người cảm nhận tự nhiên, thiết lập quan hệ chủ thể tương
giao với đối tượng thẩm mỹ. Thẩm mỹ sinh thái còn đề cao nguyên tắc dung nhập.
Đó là nguyên tắc cho phép các yếu tố tưởng chừng như vốn dĩ tách biệt lại có thể
dung hòa, đan xen vào nhau, hòa vào nhau làm một. Quên đi bản ngã để cảm nhận tự
nhiên chính là một phương thức của thẩm mỹ sinh thái.
1.1.2.2. Sự phát triển của
phê bình sinh thái
Trên thế giới, tuy chưa thành phong trào thống
nhất nhưng phê bình sinh thái bắt đầu xuất hiện vào những năm 1960 và 1970 cùng
với các tác phẩm của các nhà phê bình sinh thái. Tác phẩm Bi kịch của sự sống sót (The
Comedy of Survial, 1974) của
Joseph Mecker đã đưa ra một vấn đề mà
sau này trở thành nòng cốt của triết học phê bình sinh thái và môi trường, trong đó
có luận điểm cuộc khủng hoảng môi sinh chủ yếu bắt nguồn từ truyền thống văn
hóa phương Tây vốn chia tách văn hóa ra khỏi tự nhiên và dành cho văn hóa thế ưu
trội; thuyết loài người là trung tâm (anthropocentrism) đã tồn tại một cách lâu
bền trong văn hóa phương Tây mà bỏ qua lợi ích của môi trường.
Từ năm 1985, phê bình sinh thái bắt đầu trở
thành phong trào mạnh mẽ, thống nhất. Phong trào này được định hướng bởi người
tiên phong là Cheryll Glotfelty cùng cộng sự là Harold Fromm. Họ đã chung tay
biên tập tác phẩm có tên là Tuyển tập Phê
bình sinh thái: Các mốc quan trọng trong Sinh thái học Văn học (The Ecocriticism Reader: Landmarks in Literary Ecology, University
of Georgia Press, 1996). Cheryll Glotfelty đã sáng lập ra Hiệp hội Nghiên cứu
Văn học và Môi trường (the Association for the Study of Literature and
Environment – ASLE) năm 1992. Và ASLE đã có một tờ báo riêng là Nghiên cứu Liên
ngành Văn học và Môi trường (Interdisciplinary Studies in Literature and
Environment – ISLE) năm 1993. Hội trưởng đầu tiên của ASLE
là Scott Slovic. Là một trong những người có nhiều thành tựu nghiên cứu về phê
bình sinh thái, Scott Slovic bắt đầu tiếp cận phê bình sinh thái năm 1989. Đến
năm 1992, ông xuất bản chuyên luận Tìm kiếm
ý thức sinh thái trong sách viết về tự
nhiên (Seeking Awareness on America Nature writing), có ảnh hưởng rất lớn ở Mĩ.
Trong cuốn sách này, ông nghiên cứu các
nhà văn sinh thái nổi tiếng như Annie, Edward, Abbey, Wedell Bery, Bary Lopez.
Ông chú ý đến những sách viết về tự nhiên và nguyên nhân tâm lí của văn học
sinh thái, đồng thời cũng quan tâm đến cơ chế bên trong của giao lưu giữa con
người và tự nhiên.
Từ những cơ sở đầu tiên về nhân sự, tổ chức
và tư tưởng như vậy, phê bình sinh thái dần trở thành một khuynh hướng có ảnh hưởng
lớn đến đời sống văn học hiện nay của thế giới.
1.1.3. Phê bình sinh thái trong văn học Việt Nam hiện đại
Có thể không còn gì xa lạ trong nền văn học đương
đại thế giới, nhưng ở Việt Nam phê bình sinh thái là một trong những thuật ngữ
và hiện tượng mới mẻ. “Ở Việt Nam, một điều lạ lùng là sau đổi mới, giới nghiên
cứu văn học khá cởi mở trong việc tiếp thu, giới thiệu các lí thuyết văn học phương
Tây hiện đương đại, nhưng lại rất thận trọng đối với phê bình sinh thái” [13].
Trong đời sống văn học thực tế, những nhà văn
nhà thơ Việt Nam hiện đại chưa thực sự có một ý thức rõ ràng trong việc khai
thác yếu tố thiên nhiên, mối quan hệ giữa con người và tự nhiên để đưa vào những
tác phẩm văn học theo đúng tinh thần của phê bình sinh thái. “Văn học Việt Nam
sau năm 1975 mải mê với hiện thực cõi nhân sinh với những đề tài thời sự: phơi
bày những mặt trái của hiện thực, phê phán xã hội, tính dục... khiến cho tinh
thần sinh thái văn học có nguy cơ xuống dốc. Dường như “ít có bóng cây cỏ trên
đường đi của lũ nhân vật” (Cây Hà Nội
– Nguyễn Tuân). Con người đã bỏ rơi
thiên nhiên. Sự thiếu văn tự nhiên khiến cho môi trường văn học trở nên khô
khan, ngột ngạt bởi những toan tính, lừa lọc, xảo trá của đời
sống cuống quýt, vội vã. Nghệ thuật phải thông qua miêu tả mối quan hệ giữa con
người và tự nhiên để tạo nên sức hút, sức sống” [27].
Tuy nhiên, văn học Việt Nam hiện đại vẫn có
những tác phẩm có khuynh hướng phê bình sinh thái như Sống mãi với cây xanh (Nguyễn Minh Châu); Muối của rừng (Nguyễn Huy Thiệp),
Cánh đồng bất tận, Khói trời lộng lẫy, Nước như nước mắt (Nguyễn Ngọc Tư), Thập giá giữa rừng sâu (Nguyễn Khắc Phê), Chuyến đi sắn cuối cùng (Sương Nguyệt Minh)... đã có ý tưởng sinh
thái và đã rung lên những hồi chuông về sự khủng hoảng môi trường, những nỗi
đau, niềm tuyệt vọng trước cái mong manh của sự cân bằng tạo hóa và cắt nghĩa
căn nguyên của những thảm họa sinh thái.
1.2. Hành trình sáng tạo của
nhà thơ Mai Văn Phấn
1.2.1. Thơ Mai Văn Phấn trong dòng chảy thi ca Việt Nam đương đại
Văn học đương đại Việt Nam nói chung và thi
ca Việt Nam đương đại nói riêng có diện mạo chưa hoàn chỉnh, song cũng đã có
những đường nét khuynh hướng định hình. Thơ Việt Nam sau năm 1975 có tính đa dạng,
phong phú của đối tượng, của sự nở rộ phong cách sáng tác của những nhà thơ
khiến cho sự nhìn nhận đánh giá phải vừa có tính bao quát vừa có tính cụ thể.
Rõ ràng là sự xuất hiện và định danh của rất nhiều những nhà thơ hiện đại đã
làm nên khuôn mặt của thơ ca đương đại Việt Nam, nhưng cũng chính do vậy mà diện
mạo ấy vẫn chưa hoàn thiện, bởi còn sự vận động và thay đổi. Sự sắp xếp, đánh
giá các tác giả, tác phẩm vào một khuynh hướng nhất định luôn ẩn chứa sự khiên
cưỡng. Bởi vậy mọi sự xác lập khuynh hướng sáng tác cho các tác giả chỉ là mang
tính tương đối. Nhiều nghiên cứu, thẩm định văn học, thơ ca cho rằng nền thơ ca
đương đại Việt Nam đương có ba khuynh hướng cơ bản. Một là khuynh hướng bảo tồn
các giá trị cơ bản của thơ ca truyền thống. Khuynh hướng thơ ca này bảo tồn các
giá trị truyền thống về hình thức thơ ca như các thể thơ,
các hình ảnh thường dùng, những ngôn ngữ giản dị, thân thuộc... trên cơ sở đó
bảo tồn và truyền tải những nội dung thông điệp mang tính bất biến của đời sống
tình cảm con người. Hầu hết các nhà thơ đi theo khuynh hướng này là các nhà thơ
trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Có thể kể đến những tên tuổi lớn ấy
như là Xuân Quỳnh, Đoàn Thị Lam Luyến, Phan Thị Thanh Nhàn, Trần Nhuận Minh, Lê
Thị Mây, Diệp Minh Tuyền, Nguyễn Thị Hồng Ngát, Ý Nhi, Vũ Quần Phương, Trương
Nam Hương, Lê Đình Cánh, Vũ Thị Khương, Huy Trụ, Vân Long, Chu Thị Thơm,… Hai
là khuynh hướng cách tân khám phá. Khuynh hướng này lại có thể chia ra thành
hai chi lưu: cách tân nội dung thể tài và cách tân hình thức thể loại. Cách tân
nội dung thể tài biểu hiện rõ nhất trong việc các thi sĩ đương đại tìm kiếm một
nguồn sống mới, khai thác sâu hơn vào những tầng vỉa của đời sống tâm linh, vô
thức, những ẩn ức khuất chìm trong vùng tối của bản năng sống, bản năng người,
như là ý thức phản tư, tâm linh, tính dục, nữ quyền, ngoại vi, bên lề, bề trái,
thiểu số,… Đó là thơ của Phạm Thị Ngọc Liên, Dư Thị Hoàn, Nguyễn Quang Thiều,
Mai Văn Phấn, Dạ Thảo Phương, Phan Huyền Thư, Lynh Bacardi, Khương Hà, Thanh
Xuân, Nguyệt Phạm, Phương Lan, Vi Thuỳ Linh,… Cách tân về hình thức ngôn ngữ
thơ dựa trên tư duy đồng nhất thơ và chữ, làm
thơ là làm chữ (Trần Dần). Âm, hình, tự dạng, màu sắc, cách thức bày bố, thể
hiện chữ được triệt để khai thác, vượt qua những lớp nghĩa tự vị, tiêu dùng để
phát sinh năng lượng thi tính mới. Các nhà thơ tiêu biểu của dòng thơ này là
Trần Dần, Lê Đạt, Dương Tường, Đặng Đình Hưng, Hoàng Hưng, Đoàn Văn Chúc, Từ Huy...
Ba là khuynh hướng song hành giữa sự bảo tồn truyền thống và các tân thơ ca
Việt. “Sự cách tân trên cơ sở kế thừa và phát huy các ưu thế của truyền thống
thơ trữ tình Việt Nam có thể thấy hiện rõ trong những sáng tác của Trương Đăng
Dung, những dự cảm giai đoạn đầu hay sự trở về mới mẻ của Mai Văn Phấn thời gian gần đây, cách làm mới lục bát của Nguyễn Duy, Đồng
Đức Bốn, Văn Công Hùng, Đinh Nam Khương, Nguyễn Việt Chiến, Miên Di, Nguyễn Thế
Hoàng Linh…” [7].
Trong dòng chảy thơ ca Việt Nam đương đại ấy,
Mai Văn Phấn đã định hình được tên tuổi và vị trí của mình một cách rất rõ
ràng. Mai Văn Phấn là một trong số ít nhà thơ có hành trình thơ liên tục đổi mới,
chiêm nghiệm, tìm tòi, khám phá, thể nghiệm trong đời sống thơ Việt Nam đương
đại. Sự tự đổi mới bản thân trong thơ Mai Văn Phấn thể hiện qua cả nội dung và
nghệ thuật thơ. Về thể loại, Mai Văn Phấn đã thể nghiệm trên hầu hết tất cả các
thể loại thơ ca truyền thống và đều đạt được những thành quả khả quan. Ngay
trong việc bảo tồn các giá trị thơ ca truyền thống, Mai Văn Phấn cũng thể hiện
tư duy, khát vọng cách tân rõ ràng. Có thể kể đến biểu hiện ấy qua lối thơ lục
bát cách điệu (6/6/8/8) của tác giả:
Em lần theo bóng mây trôi
Thấm qua sóng lá vô hồi
Đằm vào anh tiếng chim đôi
bất ngờ
Làm vang lên những dây tơ
vừa chùng
Nhoà tan anh với mông lung
Em là giếng gió trong lòng
Nhấn chìm anh thoắt đã
không còn gì
Hư vô thành thật cũng vì
yêu em
(Em xa)
Về chủ đề, thơ Mai Văn Phấn đã thể hiện được
hầu hết những suy tư tình cảm phong phú, đa dạng trong đời sống của xã hội con
người đương đại từ nỗi âu lo, oài nghi, bi quan, khổ đau, hạnh phúc, tin tưởng,
khát vọng, với các vấn đề tâm linh, tôn giáo, tình yêu, sự tha hoá, môi trường,
nông thôn, đô thị, hậu chiến, tha hương, trở về,… đến những cảm quan về mối
quan hệ giữa con người và thiên nhiên. Về quan điểm cái đẹp,
thơ Mai Văn Phấn đã khám phá cái đẹp trong nhiều không gian và các mối tương
quan: cái cao cả, cái bi hài, cái khác biệt, sự tương đồng, trong thâm tâm con
người, trong sự biểu hiện của tự nhiên, trong chiều sâu tư duy lịch sử, hiện tại,
tương lai... Người ta đánh giá nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn mang đặc trưng của
văn học tiền hiện đại và hậu hiện đại khá rõ ràng. Về tư duy nghệ thuật, thơ
Mai Văn Phấn có sự rõ ràng, mạnh mẽ trong việc xác định đường lối cách tân, cảm
quan thẩm mỹ, dám tiên phong và dám thể hiện bản thân.
So với những tác giả đương thời, thơ Mai Văn
Phấn rõ ràng là một phong cách riêng không trộn lẫn. Nhịp điệu thơ Mai Văn Phấn
mang phong thái sự sống, lặng lẽ, nhuần nhị hơn Nguyễn Quang Thiều, cẩn thận, lịch
lãm hơn Đồng Đức Bốn, và mau lẹ, gấp rút hơn Thanh thảo, trẻ trung hơn Nguyễn
Duy, nhưng sành điệu lại chưa đạt đến độ như các thi sĩ trẻ... Ở nhiều phương diện
khác, Mai Văn Phấn có sự vận động nhanh hơn, rõ ràng hơn sự vận động thơ Hoàng
Nhuận Cầm, Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thị Hồng Ngát... Nghĩa là Mai Văn Phấn đã
đi từ khuynh hướng truyền thống sang khuynh hướng cách tân và từ đó đang cố gắng
song hành cùng hai khuynh hướng này.
Thơ Việt Nam sau 1975 đang lâm vào khủng hoảng.
Câu chuyện đó hẳn không còn mới mẻ, nhưng dường như có ít người - thi sĩ để tâm
đến sự bất ổn đó, chưa nói đến việc kháng cự hay thay đổi. Điều đáng quý nhất ở
Mai Văn Phấn chính là từ sự nhạy cảm nhận ra bất ổn, khủng hoảng đến hành vi chống
lại khủng hoảng diễn ra liên tục. Điều này đồng nghĩa với việc không chấp nhận
một sự thoả hiệp hay ngủ yên trong tự mãn. Biểu hiện rõ nhất cho động thái này
chính là Mai Văn Phấn nhận diện những bất ổn đẩy nền thơ vào khủng hoảng. Dọc
hành trình thơ từ Giọt nắng (1992) đến
Vừa sinh ra ở đó (2013), luôn thấy trong thơ Mai Văn Phấn những hoài nghi, âu
lo, sợ hãi, hoang mang. Đó là cảm thức đầu tiên khi chạm mặt cái im lặng tù đọng,
cái yên ổn đông cứng, phải hoài nghi mới đặt ra phản nghiệm.
1.2.2. Những chặng đường sáng tạo
1.2.1.1. Giai đoạn từ khởi
nghiệp đến năm 1995
Các tác phẩm của Mai Văn Phấn ở giai đoạn này
chủ yếu nằm trong hai tập thơ Giọt nắng
(thơ, 1992), Gọi xanh (thơ, 1995).
Tên tuổi của ông bước đầu được khẳng định bằng các giải thưởng: giải nhất văn
nghệ thành phố Hải Phòng với bài thơ Thuốc
đắng (1991), giải nhì của báo Người Hà Nội với bài Nghi Tàm (1994), báo Văn nghệ
với chùm hai bài thơ Mười nén nhang ở
ngã ba Đồng Lộc và Nhật kí đô thị hóa
(1995).
Những sáng tác của Mai Văn Phấn trong giai
đoạn đầu thường mang đậm ảnh hưởng của thơ ca truyền thống từ hình ảnh, nhịp
điệu, thể thơ, kết cấu bài thơ… đến những ý tưởng trong thơ. Tuy nhiên, Mai Văn
Phấn vẫn thể hiện sự chủ động, sáng tạo, khám phá để đem đến cho người đọc những
câu thơ hay, hình ảnh độc đáo, giá trị, những ý tưởng sâu sắc, mang đậm dấu ấn
tư duy riêng của nhà thơ… Trong thể thơ lục bát rất truyền thống của văn học Việt
Nam, Mai Văn Phấn đã đem vào đó những cách thể hiện mới về những ý tưởng mới.
Mai Văn Phấn đã đưa những ý tưởng mang tính triết học vào trong những vần thơ
lục bát du dương, uyển chuyển. Đây là một điểm chúng ta cần lưu tâm về thơ của
Mai Văn Phấn trong giai đoạn này và trong giai đoạn về sau nữa.
Thơ Mai Văn Phấn giai đoạn đầu trong hình thức
của những bài thơ rất đỗi quen thuộc như thể thơ bảy chữ nhưng lại truyền tải
những ý niệm mới mẻ về sự sống. Đó là sự sống tuần hoàn, trỗi dậy, quật khởi.
Nhà thơ dùng chuỗi hình ảnh tán lá xanh
– lá
rụng, con thuyền úp – con thuyền lật mình để truyền tải ý niệm
trên:
Tán lá hiện ngôi nhà bình
yên
Phía sau nằm úp một con
thuyền
Lá rụng
khi dòng xanh tưởng cạn
Con thuyền phía ấy lật
mình lên
(Chiếc lá)
Trong những nhịp điệu thơ lạ, những hình ảnh
độc đáo và lối liên tưởng đặc sắc, thơ Mai Văn Phấn thời kỳ này có nhiều những
chiêm nghiệm rất hay về cuộc sống. Đó có thể là chiêm nghiệm về tuổi thơ qua một
cánh chim trời, lướt ngang qua ánh mắt nhà thơ khiến nhà thơ cảm nhận nó như một
que diêm quệt lửa vào ký ức tuổi thơ của tác giả:
Bất chợt vệt cánh chim bay
qua
Hay quanh quất bóng mình
sót lại
Cánh chim tựa
que diêm quệt vào ngây dại
Ngọn lửa thiên thần nào có thể bén vào tôi
(Cánh chim bay qua)
Cuối giai đoạn thứ nhất, thơ Mai Văn Phấn bắt
đầu có sự chuyển biến. Nhà thơ như bắt đầu vào cuộc lột xác, hình thức thơ, ý tưởng
thơ có bước chuyển mình đầy phóng khoáng, tự do. Trong thơ Mai Văn Phấn lúc
này, những hình ảnh như trái đất, mùa thu, phù sa, mùa xuân... được đưa vào bằng
một lối cảm nhận mới.
Thơ Mai Văn Phấn ngay từ ban đầu đã muốn truyền
tải khát vọng sống, khát vọng dâng hiến, tìm tòi, sáng tạo. Đó là ý niệm thường
trực trong mỗi bài thơ, nhờ vậy những bài thơ mang hình thức thơ rất truyền thống
lại có thể truyền tải một thông điệp mới mẻ.
1.2.1.2. Giai đoạn từ 1995
đến 2000
Giai đoạn từ 1995 đến 2000 là giai đoạn thơ
thứ hai trên lộ trình thơ Mai Văn Phấn với hai tập thơ Cầu nguyện ban mai (1997), Nghi
lễ nhận tên (1999) và trường ca Người cùng thời (1999). Ở giai đoạn này,
thơ Mai Văn Phấn như lột xác về nội dung, tư tưởng cũng như hình thức thể hiện,
về cảm hứng và về thi pháp.
Trong giai đoạn này, trường ca Người cùng thời thể hiện rất rõ đặc trưng
thơ ca của Mai Văn Phấn. Những hình thức thơ Mai Văn Phấn đã thể hiện trong thời
kỳ trước hay những cách tân sáng tạo của nhà thơ trong giai đoạn này đều xuất
hiện trong trường ca Người cùng thời.
Trường ca này chứa đựng tất cả các hình thức thơ anh đã sáng tác trước đó, đồng
thời cũng xuất hiện ở một số chương những hình thức thơ mới, những cấu trúc
câu, nhịp điệu, ý tưởng khác biệt, những kết cấu mảng khối bị phá vỡ... Có những
chương mà hình thức thơ là những từ nối tiếp không có dấu chấm, phảy, xuống
hàng, duy nhất còn lại là những ký tự vang lên như những câu hỏi mang theo
thách thức. Trường ca gồm 10 chương, chương I: Nhóm lửa, đến Chương X: Phía
trước bàn chân. Phần giữa có 3 chương
với tiêu đề: Cộng hưởng I, Cộng hưởng II và Cộng hưởng III làm thành những trụ cột của ngôi nhà Người cùng thời. Mỗi chương của trường
ca được nhà thơ triển khai theo những mạch vỉa trong không gian và thời gian được
dịch chuyển biên độ rộng lớn. Những vỉa mạch nổi bật như tôi vừa nêu được nhà
thơ chú tâm dùng những hình ảnh và liên tưởng khoáng đạt, ý tưởng hướng tới một
tương lai khả định dựng lên một cảnh tượng mang tính hiện thực hoành tráng, lý
tưởng đã khép lại trường ca này. Đây là một ý đồ mới mẻ của tác giả trong trường
ca này. Trong chương cuối của trường ca, nhà thơ đã dựng lên những ý tưởng chủ
đạo. Đó là tuyên ngôn nghệ thuật, là suy ngẫm về nguồn cội, về mối quan hệ giữa
con người và tự nhiên.
Nhà thơ Lê Xuân Đố khẳng định thơ Mai Văn
Phấn giai đoạn này “bứt phá cách tân thi pháp với nhiều cách nói và mở rộng
biên độ thơ biểu hiện nhiều vấn đề của thời cuộc, bản tính con người hiện đại
và phát hiện những nét đẹp tiềm ẩn của tình yêu, đời sống” [20]. Cùng với ý thức
cách tân thi pháp, Mai Văn Phấn khao khát nhận thức hiện thực ở “bề sâu, bề sau,
bề xa” của nó. Mang đậm dấu ấn hiện đại chủ nghĩa, thơ ông giờ đây chỉ là những Dàn ý hay Bài tập mùa xuân, hoặc những ý tưởng bất
chợt “đến trong ý nghĩ”. Những câu chữ
bề bộn, phá vỡ ranh giới thơ và văn xuôi, không hề có dấu câu, miên man như “những
ý nghĩ không sắp đặt”, “không quán tính”, “đảo lộn mọi quy ước phổ thông”. Điều
này được chứng minh qua các bài thơ: Mười
bài tập mùa xuân, Mail cho em, Những ý nghĩ không sắp đặt, Dừng lại, Di chứng, Niệm khúc số 18,…
1.2.1.3. Giai đoạn từ năm
2000 đến nay
Từ 2000 đến nay, Mai Văn Phấn đã khẳng định sức
sáng tạo dồi dào qua hàng loạt tập thơ: Vách
nước (2003), Hôm sau (2009), và đột nhiên gió thổi (2009), Bầu trời không mái che (2010), Vừa sinh ra ở đó (2013),…
Giai đoạn thơ thứ ba này của Mai Văn Phấn được
đánh giá là giai đoạn cách tân, sáng tạo đầy tự tin của Mai Văn Phấn. Sự cách
tân sáng tạo không dừng lại ở hình thức thơ, không chỉ dừng lại ở chất liệu hiện
thực được đem vào thơ, không dừng lại ở những ý tưởng mới, cách suy luận mới,
mà còn vươn tới sự cách tân về lối thơ, phong cách thơ. Tác giả Dương Kiều Minh
nói về thơ Mai Văn Phấn trong giai đoạn thứ ba này: “Quả thật, thực hiện cuộc
cách tân này của Mai Văn Phấn trong bối cảnh sáng tác thơ ca của nước ta như
hiện nay, là một hành động dũng mãnh phi thường. Tôi mường tượng thấy thơ ca
Mai Văn Phấn như con tuấn mã đang lao đi vun vút như tên bắn, hai bên sườn gió thổi
ù ù. Phía trước là chân trời, là đồng cỏ và trời xanh vô tận. Cuộc kiếm tìm hay
là sự rượt đuổi ráo riết? Số phận ư? Khát vọng ư? Và những câu hỏi cứ được sinh
ra tiếp nối sau những câu thơ của Mai Văn Phấn” [23].
Những sáng tác của Mai Văn Phấn trong giai
đoạn mới mang tính cách tân rất cao độ. Sự cách tân ấy được định hướng bởi lí
trí “tỉnh táo tột cùng” như nhà thơ đã viết trong một bài thơ cùng tên. Rõ
ràng, Mai Văn Phấn đã rất tự tin cách tân bởi vì ông đã có một cương lĩnh thơ
ca mạch lạc, cụ thể. Sự cách tân như vậy là sự cách tân có ý thức, có mục tiêu
và có lý tưởng.
“Chỉ khi một cánh chim hay tia sáng ngôi sao
vô tình nào bỗng xuyên thủng lớp vỏ kia bí ẩn, hay hạt giống được chạm vào dịu
nhẹ ngón tay của mưa xuân, mọi trật tự và quan niệm sẽ khác.” (Giải pháp)
Đó là một đoạn thơ mà nội dung không chỉ nói
về sự tương tác và sinh trưởng của hạt giống, mà còn là một quan niệm thơ ca
của Mai Văn Phấn: Khi mà tâm hồn nhà thơ giao hòa với mọi biến động dù là đơn
giản nhất của tạo hóa, thiên nhiên thì thơ ca của họ sẽ là kết quả của một sự
cách tân đẹp đẽ. Còn có nhiều câu thơ mà nhà thơ ẩn ý về sự cách tân có ý thức
trong thơ mình như: “Từ một điểm bất kỳ tới chỗ con mèo chơi với miếng giẻ lau
là đường chân trời. Mặt đất đang dần co lại. Vòm thời gian cong quá sẽ vỡ (…).
Nơi mũi tên rơi, mặt đất rung lên đẩy ta tới một đích khác” (Vòng cung thời gian). Sự cách tân nghệ
thuật suy cho cùng là sự cách tân về tư duy nghệ thuật, là sự đổi mới về trật tự
tư duy trong đầu óc cũng như trên trang giấy: “Biết ai vừa nảy ra ý định xếp tất
cả những suy tư kia thành đồ chơi” (Những
ý nghĩ không sắp đặt).
Sự liên tưởng phóng khoáng của tưởng tượng tạo
nên sức quyến rũ và ngoạn mục của hình ảnh, ngôn từ, biên giới của những không
gian, thời gian thơ được nới đẩy hết kích cỡ. Thơ Mai Văn Phấn là cuộc tổng diễn
tập lớn với những bài thơ phóng ra những ý tưởng, hình ảnh khoáng hoạt, cường
tráng và mạnh mẽ. Sự mạnh mẽ của nội lực các câu thơ đã xé rách, lướt qua những
tấm mạng vô hình của những thói quen cũ.
Để biểu đạt nhịp sống sôi động, phong phú, phức
hợp của đời sống hiện đại, Mai Văn Phấn đã sớm khai thác có chọn lọc những hình
thức nghệ thuật thi ca tiên tiến. Do vậy, đời sống phồn tạp hiện lên trong thơ
anh với nhiều góc nhìn, giúp ta nhận chân sự thật đầy đủ nhất, ngoài ra còn
mang giá trị tiên tri, dự báo. Hình thức thơ mới này đã tiếp cận đời sống, sự vật
bằng một trực giác vô cùng mạnh mẽ. Nó trực tiếp xuyên thấu sự vật, hiện tượng để
gọi ra đúng bản chất của chúng.
Ba chặng đường sáng tác của Mai Văn Phấn cho
thấy rõ sự trưởng thành trong sáng tạo nghệ thuật của ông. Từ chỗ nghiêng về
truyền thống, chưa tạo được dấu ấn đến bứt phá mạnh mẽ và gặt hái được nhiều
thành công. Qua thời gian, Mai Văn Phấn thể hiện độ chín trong ngòi bút, những
nỗ lực cách tân đáng khâm phục để tạo dựng một phong cách riêng trong thơ Việt
Nam đương đại.
1.2.3. Quan niệm nghệ thuật
Quan niệm về nghệ thuật được Mai Văn Phấn thể
hiện trực tiếp qua các tiểu luận văn học, trả lời phỏng vấn hoặc bộc lộ gián tiếp
qua các sáng tác thơ. Với ông, chức năng của thơ ca hướng con người đến với cái
đẹp. Sứ mệnh cao cả của nó là cứu rỗi con người và thế giới. “Cốt cách thi sĩ”
là điều quan trọng hơn cả. Theo ông, một bài thơ hay thường bất ngờ, tìm không
dễ thấy. Thơ ca càng sáng tạo, càng biến ảo bao nhiêu lại càng đem lại sự chân
thực bấy nhiêu. Sáng tạo thơ ca là quá trình vượt thoát khỏi cá tính, là những
cuộc “vong thân”. Đó là một cuộc vượt thoát chính bản thân mình, tự phủ định những
cái đã làm, phải coi cái mình đã viết là cái đã cũ thì mới mong đạt đến đỉnh
cao trong nghệ thuật. Nhà thơ cũng kêu gọi khả năng “đồng sáng tạo” ở độc giả.
Ông quan niệm, hiện thực trong thơ là một siêu hiện thực, hiện thực khách quan
đã được khúc xạ qua lăng kính chủ quan của nhà thơ. Và cách mạng thi ca cần phải
gắn liền với việc sáng tạo những hình thức mới để dung chứa một nội dung mới.
Mai Văn Phấn nhìn nhận và thể hiện thế giới
trong trạng thái phồn sinh và hóa sinh bất định. Thế giới trong thơ Mai Văn Phấn
là thế giới đa dạng, phong phú, đa chiều, đa lớp, đầy sức sống. “Đọc thơ Mai
Văn Phấn thấy sự có mặt của rất nhiều không gian. Phấn chơi không gian. Đó là
không gian cánh đồng. Không gian phố phường. Không gian dòng sông. Không gian
căn phòng. Cụ thể hơn, đó là các phối cảnh với cơ man những dòng sông, cơn mưa,
ban mai, bóng tối, ánh trăng, cây cối, hoa cỏ, đất đai, con đường, bầu trời, đám mây, trẻ con, người tình… Kể cả những không gian giấc
mơ, không gian ảo giác đầy mộng mị, hư biến, kỳ ảo, siêu thực với những bóng người,
bóng ma, nội thất, đồ vật, con vật… nhiều loại” [6]. Trong thế giới thơ đó, Mai
Văn Phấn có lẽ đã thực hiện nguyên lý cơ bản của vũ trụ phương Đông, đó là
thiên nhân hợp nhất, trời với người hòa làm một. Đây là một quan điểm triết học
trong thơ và một cách ứng xử văn hóa của Mai Văn Phấn. Không chỉ là sự phồn
vinh, thế giới thơ Mai Văn Phấn còn là sự sống sinh nở dồi dào. Nhà thơ tìm kiếm
và thể hiện trạng thái, sinh nở, mang thai thậm chí làm tình của vạn vật tạo
hóa, trong sự tìm kiếm thể hiện ấy, cái đẹp bao giờ cũng được nhà thơ phát hiện
ra rồi nói cùng bạn đọc. Nhà thơ thường viết về ban mai, ban mai là sự khởi đầu
của một ngày, khởi đầu sự sống, đánh thức và bừng tỉnh, vạn vật và con người được
hoàn nguyên trong trạng thái khởi đầu, thanh khiết, tinh khôi. Đây cũng được
xem là quy luật biểu hiện sự sinh sôi nảy nở trong thơ Mai Văn Phấn.
Sự sống trong thế giới thơ Mai Văn Phấn còn được
biểu hiện ở sự hóa sinh bất định. Có lúc nhà thơ miêu tả một thế giới đang bị hủy
diệt, phân rã; đôi khi nhà thơ nói về cái chết chóc của thiên nhiên, con người;
nhưng điều quan trọng là trong khi nói về những thứ đó, Mai Văn Phấn muốn gửi gắm
suy tư rằng tất cả sự chết chóc, sự phá hủy chỉ là sự khởi đầu của một quá
trình mới, một vòng tuần hoàn mới, mà chúng ta có thể gọi là sự hóa sinh bất định.
“Thơ Mai Văn Phấn khuyến dụ con người hy vọng
vào sự sống bất tử nhờ lẽ hóa sinh mầu nhiệm - một nguyên lý tinh thần nằm
ngoài tầm kiểm soát của lý trí/ ý chí con người” [6]. Quan niệm mỹ học này chi
phối thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn.
Có thể nói, Mai Văn Phấn là một nhà thơ luôn
có ý thức đổi mới thi ca, phương pháp sáng tác. Những quan niệm về nghệ thuật
cũng như nhận thức sứ mệnh của người nghệ sĩ đã phản ánh phần nào phẩm chất
cũng như phong cách riêng của nhà thơ trong dòng chảy thơ đương đại.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Với nhiệm vụ trình bày cơ sở lý luận cho luận
văn, Chương 1 tìm lời giải cho hai vấn đề chính, đó là quan niệm về phê bình
sinh thái và khái quát về sự nghiệp thơ ca của Mai Văn Phấn. Phê bình sinh thái
không mới trong đời sống văn học thế giới, nhưng còn xa lạ với văn học Việt
Nam. Sự ra đời của phê bình sinh thái dường như là tiếng nói phê bình, phản đối
hệ quả của văn hóa phương Tây về việc cho rằng con người là trung tâm của đời sống
và văn học. Phê bình sinh thái muốn lật lại vấn đề không phải con người mà
thiên nhiên mới chính là trung tâm của thế giới hiện tồn cũng như thế giới nghệ
thuật. Phê bình sinh thái phân tích mối quan hệ giữa thiên nhiên và con người trong
văn học nghệ thuật từ đó mà đưa ra các đánh giá, nhận xét và định hướng. Nền tảng
triết học của phê bình sinh thái là những tư tưởng tiến bộ về chủ nghĩa chỉnh
thể sinh thái phương Tây và tư tưởng thiên nhân hợp nhất trong văn hóa phương
Đông. Trong văn học đương đại Việt Nam nói chung và thơ ca đương đại Việt Nam
nói riêng, Mai Văn Phấn là một nhà thơ hiện đại. Đây là nhà thơ năng nổ, xông
xáo trong tìm tòi, sáng tạo, cách tân. Thơ ông đã trải qua ba giai đoạn trong
suốt những năm 1992 đến nay. Thơ ông ca ngợi sự phồn sinh và hóa sinh bất định
của thế giới, từ đó nói lên tâm tư tình cảm, khát vọng và hy vọng của con người.
Mai Văn Phấn đã định hình vị trí của bản thân một cách rõ ràng trong nền thi ca
Việt Nam đương đại.
Chương 2
SINH THÁI TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN QUA CÁC BIỂU TƯỢNG CƠ BẢN
2.1. Khái niệm “biểu tượng”
Theo Từ
điển Tiếng Việt do GS Hoàng Phê chủ biên, “biểu tượng” là hình ảnh tượng trưng,
là hình ảnh của nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ
lại trong đầu óc khi tác dụng của sự vật vào giác quan đã chấm dứt.
Từ điển thuật
ngữ văn học của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn
Khắc Phi cũng định nghĩa “biểu tượng là khái niệm chỉ một giai đoạn, một hình
thức của nhận thức cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại
trong đầu óc sau khi tác động của sự vật vào giác quan ta đã chấm dứt”.
Vũ Dũng trong Từ điển tâm lí học giải thích “biểu tượng là hình ảnh các vật thể,
cảnh tượng và sự kiện xuất hiện trên cơ sở nhớ lại hay tưởng tượng. Khác với
tri giác, biểu tượng có thể mang tính khái quát. Nếu tri giác chỉ liên quan đến
hiện tại, thì biểu tượng liên quan đến quá khứ và tương lai”.
Như vậy, có thể hiểu, trong văn học, “biểu tượng”
là những hình ảnh sự vật cụ thể cảm tính bao hàm trong nó nhiều ý nghĩa gây được
ấn tượng sâu sắc đối với người đọc. Biểu tượng nghệ thuật được coi là kí hiệu
thẩm mĩ đa nghĩa bao gồm cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Nó chính là sự mã
hóa cảm xúc, ý tưởng của nhà văn, là một sáng tạo nghệ thuật. Biểu tượng trở
thành phương tiện diễn đạt cô đọng, hàm súc, có sức khai mở rất lớn trong sự tiếp
nhận của độc giả. Những tác phẩm sử dụng nhiều biểu tượng thể hiện sự chối từ
cách viết trực tiếp giãi bày tâm tư tình cảm của người viết.
Biểu tượng nghệ thuật phản chiếu hiện thực khách
quan, thể hiện khả năng cắt nghĩa đời sống từ cái nhìn văn hóa của nhà văn; kết
tinh bản sắc văn hóa, suy nghĩ, quan niệm của dân tộc; mang
dấu ấn của thời đại, khuynh hướng văn học một cách sâu sắc. Nhà văn có thể dùng
những biểu tượng trong đời sống đặt nó vào trong một chỉnh thể mới, cấp cho nó
những quan hệ mới để không những chuyển cảm xúc tư tưởng của mình vào trong nó
mà còn tạo cơ hội để nó có thể mang thêm ý nghĩa. Mỗi thời đại có một khuynh hướng
xây dựng biểu tượng riêng và mỗi nhà văn cũng có những hứng thú riêng trong việc
xây dựng biểu tượng nghệ thuật.
Biểu tượng là phương thức tư duy nghệ thuật của
nhà văn. Việc nghiên cứu, khám phá, giải mã biểu tượng giúp ta hiểu sâu hơn bản
chất sáng tạo nghệ thuật, góp phần triển khai them hướng nghiên cứu thi pháp
hình tượng, đem lại những khám phá mới mẻ và lí giải quá trình sáng tạo của người
nghệ sĩ.
2.2. Sinh thái trong thơ
Mai Văn Phấn qua các biểu tượng cơ bản
2.2.1. Hệ biểu tượng về bầu trời
2.2.1.1. Biểu tượng ánh
sáng
Nếu nhà phê bình văn học Văn Giá thấy rằng
trong rất nhiều thi ảnh bề bộn của thơ Mai Văn Phấn có ba hình ảnh cô đọng và
tiêu biểu nhất là “Đất đai, Ánh sáng và Người tình” thì Phạm Xuân Nguyên lại
phát hiện ra trong thơ Mai Văn Phấn có rất nhiều “ban mai” và “ngọn lửa”. Ánh sáng và những biến thể khác của nó
như mặt trời, vầng trăng, tia nắng, ban
mai, ngọn lửa xuất hiện với tần số lớn trong thơ ông: ánh sáng (355 lần), ban mai
(92 lần), ngọn lửa (74 lần). Chỉ riêng trong hai tập thơ “Vừa sinh ra ở đó” và “Thơ tuyển Mai Văn Phấn” biểu tượng ánh
sáng xuất hiện 56 lần. Với tần số xuất hiện dày đặc như thế ánh sáng trong thơ ông biểu trưng cho
điều gì? Có thể nói, Mai Văn Phấn liên tục tạo ra những cấu trúc mới cho biểu tượng
vì thế mà người đọc có thể thỏa sức khám phá, giải mã những “khoảng trống”
trong hệ thống biểu tượng của thơ ông và “đồng sáng tạo” với thi sĩ.
Biểu tượng ánh sáng trong “Từ
điển biểu tượng văn hóa thế giới” được Jean Chevalier và Alain Gheerbrant giải
thích theo nghĩa gốc đại ý như sau:
Ánh sáng được liên hệ với bóng tối, để tượng
trưng cho những giá trị bổ sung hoặc thay phiên nhau trong một quá trình biến
đổi. Mai Văn Phấn viết trong thơ mình:
Bình minh lên chiếu sáng nửa
đời
Còn nửa kia chìm vào bóng
tối
(Màu xanh)
Bình minh mang ánh sáng chiếu nửa địa cầu và
nửa địa cầu kia chìm vào bóng tối, một hiện tượng tự nhiên bất biến nhưng hai
chữ “nửa đời” gợi nhiều liên tưởng. “Đời” là trái đất, cõi đời mà cũng là cuộc
đời, đời người. Ánh sáng của bình minh soi chiếu tâm hồn con người. Con người
trước ban mai thanh khiết mà tự nhìn nhận chính mình, đối diện với bản lai diện
mục của mình. Và phải chăng không có con người hoàn hảo. Trong mỗi chúng ta đều
tồn tại song song những mặt đối lập tốt – xấu, thiện – ác, thiên thần – quỷ dữ,…Phần
dễ nhận diện là phần “sáng”, phần lẩn khuất là “bóng tối”. Cuộc đấu tranh giữa “ánh
sáng” và “bóng tối” trong mỗi người cũng khốc liệt “một mất một còn” như cuộc
giao tranh giữa bình minh và bóng tối của vũ trụ, của hai nửa địa cầu.
Ánh sáng là biểu hiện sự sống. Những hạt giống
khi gặp ánh sáng thì vươn mình, sự sống vùng dậy. Nhà thơ nhân cách hóa những hạt
giống dưới ánh sáng như con người gặp được nguồn sống:
Những hạt giống vừa chạm
vào ánh sáng
Chợt hiện bao điều chẳng
thấy trong mơ
(Tự thú trước cánh đồng)
Đó chính là sức mạnh diệu kì, sức mạnh của sự
sống sinh sôi. “Chạm” là giao thoa. Ánh sáng vừa vô hình lại vừa hữu hình, chỉ
có thể nhìn thấy mà không thể chạm vào. Mai Văn Phấn viết “những hạt giống vừa
chạm vào ánh sáng” là nhà thơ đã nắm bắt được cái khoảnh khắc sự sống nảy nở
khi đụng chạm vào nguồn sống của mình. Chỉ một giây phút ngắn
ngủi ấy thôi đã đánh thức bao điều kì diệu, điều trong mơ cũng chưa hề thấy. “Sự
sống chẳng bao giờ chán nản” và ánh sáng là nguồn lực lan truyền sự sống, gieo
mầm sống cho tất cả những hạt giống trên đời.
Ánh sáng và biến thể của nó là ánh nắng
thường tạo thành những hình ảnh đứt
quãng và xa xôi trong thơ Mai Văn Phấn. Đó là “ánh sáng xa”, ánh sáng
đi qua ngón tay, ánh sáng ngột đi qua
lỗ thông hơi, rồi ánh sáng đặc tả khuôn
mặt, pha lê ánh sáng, ánh sáng xanh,…
Ánh nắng, mặt trời trong cảm quan nhà thơ thật
là sống động. Mặt trời với bộ dạng run rẩy “trong vạt áo hồng của đất, sau những
tấm rèm cửa, trong hốc cây hay trong tiếng nước xuýt xoa ong óng mặt ao nhà” [32].
Mặt trời chiếu sáng mỗi ngày, hiện tượng tự nhiên quen thuộc đến mức khiến con
người thờ ơ, vậy mà, cái nhìn thi sĩ làm hiện lên một khung cảnh quá ư quyến
rũ. Đất đai được khoác bộ áo hồng, ánh nắng quyến luyến những tấm rèm cửa, hốc
cây, mặt ao long lánh. Những sự vật vô tri được gieo sự sống bởi ánh mặt trời.
Thời điểm mặt trời mọc, ban mai thức giấc vạn
vật cũng xinh tươi dưới ánh sáng tinh khôi của một ngày mới bắt đầu. Ở đó “Có
giọt sương đêm qua đang cựa mình thăng hoa dưới ánh mặt trời”. “Giọt sương” bé
nhỏ, tầm thường, dưới ánh mặt trời cũng cựa quậy, thăng hoa. Sinh thái tự nhiên
trong thơ Mai Văn Phấn không có sự vật nào là vô nghĩa. Chúng đều chứa trong mình
sự sống, sự sống ở giai đoạn phát triển, nảy sinh.
Chính vì mặt trời là biểu tượng của khởi đầu,
cho nên nhà thơ liên tưởng hình ảnh mặt trời với bào thai:
Co quắp con ngủ trong gió
lạnh
Mơ thành bào thai
Cuống nhau nối mặt trời
(Cửa Mẫu)
Trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù đớn đau, dù
thảm khốc, chỉ cần hướng tới ánh sáng, hướng tới mặt trời thì một mầm sống lại
được hoài thai. Hình ảnh “cuống nhau nối mặt trời” là một hình ảnh giàu ý
nghĩa, đẹp kì vĩ. “Mặt trời” bất diệt, vĩnh hằng. “Cuống nhau” để nuôi sống bào
thai. “Cuống nhau nối mặt trời” là sự sống vĩnh cửu, trường tồn.
Mặt trời, ban
mai là những hình ảnh cùng trường nghĩa: “Mặt trời bên kia bức tường. Vòm cây, tổ chim hơi thở ban mai”. Ánh sáng mặt trời là
chất liệu sự sống của thực vật, loài cây vươn lên đón lấy ánh nắng mặt trời để “vươn
thẳng tán cây quang hợp mặt trời”. Mặt trời còn giao hòa với những yếu tố tự
nhiên khác:
Ngâm trong nước
mặt trời không còn nóng Vỡ òa bọt sóng lân tinh
(Hình đám cỏ - Nhịp VII)
hay:
Anh nhào lộn giữa gió và
nước
tôm cá và mặt trời
rong rêu và mây trắng
ký ức và mộng tưởng
(Hình đám cỏ - Nhịp VIII)
Đọc thơ Mai Văn Phấn, độc giả sẽ gặp rất nhiều
những ban mai. Theo thống kê của
chúng tôi, trong “Thơ tuyển Mai Văn Phấn”, ban
mai cùng những đồng vị của nó như hừng
đông, nắng sớm, nắng mới, rạng đông, bình minh, sớm mai, buổi sớm,… xuất
hiện 92 lần trong tổng số 356 bài thơ của
tuyển tập thơ này. Ban mai – cái nguyên sơ, trong trẻo khởi đầu một ngày mang
ý nghĩa hồi sinh và có mặt trong suốt hành trình sáng tạo thơ Mai Văn Phấn.
Không chỉ xuất hiện trong những bài thơ lẻ, ban mai còn trở thành nỗi khao khát
mang ý nghĩa tâm linh. Mai Văn Phấn có một tập thơ với nhan đề
“Cầu nguyện ban mai”. Lời nguyện cầu vào lúc ban mai hay lời nguyện cầu cho cõi
thế nhân này lúc nào cũng tươi đẹp như mỗi ban mai, đó là ước nguyện thường trực
của nhà thơ. Bởi khi ban mai xuất hiện
cũng là lúc bóng đêm bị chôn vùi, vạn vật được tái sinh trong một sức sống mới,
tiếp tục hoài thai: “Ngày mới đến đưa bàn tay nắng ấm / Lấy đi những hạt cuối
cùng / Tôi chếnh choáng rỗng không chiếc hũ / Đợi những mùa vàng, rạo rực hiến
dâng” (Tự thú trước cánh đồng).
Ban mai trong thơ Mai Văn Phấn trước hết là hình ảnh của sự khôi nguyên, tinh khiết của buổi đầu tiên
mang ý nghĩa sinh sôi, luân hồi:
Mắt bừng ra
lúc rạng đông
Chân trời hổn hển phập phồng
ngón chân
(Kinh cầu ban mai)
Và:
Cầm tay gió dắt
vào đêm
Mà hồn xanh lỡ
để quên cuối trời
Dấu chân xin
cát chớ vùi
Cho ta niệm chắc ban mai lại
về
(Qua hoàng hôn)
Ban mai xuất hiện cũng là lúc cái thiện thắng thế, khao khát được thực hiện, sự sống mạnh mẽ lại trỗi dậy,
bóng đêm, cái chết bị chôn vùi, xóa nhòa: “Tất cả đã thức dậy khuấy loãng những
u mê cho rõ khuôn mặt mình để chờ đón ban mai. Vầng mặt trời vừa tìm được lối
ra khỏi đêm tối. Đàn sao mộng du thôi không phát sáng, hoảng hốt theo nhau trút
lại màn đêm sũng ướt ao tù. Bầu trời cánh đồng tơi ra và cây cối nghẹn ngào tiếng
ban mai ngấm vào mạch đất, ngấm vào ngực ta làm tế bào vụt mới tinh sương với
đợt sóng ùa về bồi đắp. Đám mây mỡ màu phồn thực trôi đi, mục ra cho kịp thời vụ
/.../ Giờ những bàn tay tự do thức dậy, biết cộng lực cho nhau khi bình minh
đang đến tái sinh” (Người cùng thời –
Chương VI).
Trong tâm thức của nhà thơ, ban mai của ngày
mới còn gắn liền với niềm hạnh phúc của mỗi con người. Tình cha con được sưởi ấm
bởi ánh sáng ban mai tinh khôi, màu nhiệm: “Phía cha mơ có ban mai đến sớm, ban
mai ấy giống như con dẫu khóc hay cười đều làm sáng lên lớp bụi trần gian, sáng
lên những đường kỷ hà trên nền thổ cẩm. Trên hương án tổ tiên những bài vị nhang
đèn đang tư lự một điều gì âm ỉ. Sau tiếng đàn đá trống đồng, cha đứng ngây
nhìn đàn chim Lạc bay qua...
Con đã thức dậy trong ban mai của cha. Phía
chân trời hừng đông như trẻ thơ bụ bẫm đang duỗi dài khoái hoạt. Vài tia sáng
đầu tiên giãi bày niềm hân hoan trên thềm cửa, rồi đưa những ngón tay mềm âu yếm
đỡ con đi” (Lúc mặt trời mọc)
Nơi mọi người hướng về để thể hiện niềm hy vọng,
tình yêu và hạnh phúc là mặt trời buổi ban mai:
Những mặt người chờ đợi
dưới hừng đông
Nỗi đau sáng lên soi niềm
vui dung dị
Không gian, thời gian mách
bảo bình minh
Tiếng cười nói ân tình rạng
rỡ
(Người cùng thời – Chương V)
Trải qua đêm dài tăm tối, giây phút “những mặt
người chờ đợi dưới hừng đông” đã gói trọn tất cả những khát khao thầm kín.
Trong khổ đau vẫn ánh lên niềm vui dung dị, niềm hạnh phúc đời thường. Hạnh
phúc ấy chỉ có được dưới ánh sáng của buổi bình minh. Giữa nhịp sống hiện đại hối
hả, xô bồ này, mối quan hệ giữa người với người ngày càng trở nên lỏng lẻo, vậy
mà mặt trời soi sáng mách bảo nhân loại nói tiếng nói “ân tình”.
Hình ảnh ban
mai và ánh sáng luôn song hành.
Đó cũng là biểu hiện của sự sống muôn màu, muôn sắc. Chỉ có thể dưới ánh sáng mặt
trời mới có một cuộc sống tươi đẹp và sinh động đến vậy. Không chỉ con người,
những sự vật tưởng như vô tri cũng khao khát ban mai, cũng
muốn chan hòa trong nắng mới, hít hà hơi ấm của bình minh:
Động rộn sương đêm
Cỏ cây, nắng mới
Núi cao
Chim chóc bay qua tảng đá
xù xì
Sông cuộn xiết
con cá động dục lóe sáng mặt nước
Mặt trời bên kia bức tường
Vòm cây, tổ chim hơi thở
ban mai
(Hình đám cỏ - Nhịp I)
Hình ảnh ban mai và ánh sáng mặt trời trong thơ Mai Văn Phấn
cũng có tác dụng khơi nguồn sáng tạo cho nhân loại:
Và ban mai đến
Lũ trẻ ùa ra từ chiếc bình
kia
Hân hoan chạy tới bến xưa
Vẽ hình hài thế kỷ sau
trên mặt cát bây giờ
(Người
cùng thời – Chương IX)
Mai Văn Phấn đã truyền cảm hứng cho thế hệ mai sau. Nối quá khứ với hiện
tại và tương, “tới bến xưa” “vẽ hình hài thế kỉ sau” ngay từ giây phút này.
Hành động ấy cũng chỉ có thể thực hiện dưới ban mai. Ban mai, rạng đông có thể
là thời điểm kêu gọi con người hành động, phấn đấu, khám phá:
Rạng đông hình lưỡi hái
Phát quang rừng cỏ đêm
Những đám mây hoang dại
rủ chúng ta đi tìm
(Người cùng thời – Chương I)
Có lẽ vì vậy mà nhà thơ Mai Văn Phấn rất vui
sướng tự ví mình là hậu duệ của ban mai, người ca ngợi ban mai. Mỗi ban mai là
mỗi lần nhà thơ thấy ông cũng như đất nước, quê hương ông dường như trẻ lại, trưởng
thành lại: “Giờ Tổ quốc cùng tôi mỗi buổi sớm lại tưng bừng tái hiện, mang
khuôn mặt mình thời mọc tóc thay răng” (Người
cùng thời – Chương III)
Như vậy, hình ảnh ban mai là hình ảnh chứa đựng nỗi khát vọng vô bờ của tác giả, nỗi khao
khát thường trực trong lòng ông. Ánh sáng ban mai là sự sống, là hy vọng, hạnh
phúc, sự may mắn và là hiện sinh của sự sinh sôi, nảy nở, luân hồi, tái sinh.
Hơn nữa, ánh sáng ban mai còn là nguồn mạch của sự sống, của sự sáng tạo vô bờ
bến.
Ánh sáng ngủ yên là cách nói minh họa cho màn
đêm buông xuống, nhân vật trữ tình cho rằng đó là sự hồi sinh sau một ngày:
Ánh sáng đã ngủ yên
Ta đang hồi sinh
Trong vòng tay của đêm
(Nghi lễ cuối cùng)
Ánh sáng nhiều khi cũng thoát thai trở thành
cõi hư ảo trong tâm tưởng siêu thoát của nhân vật trữ tình trong thơ:
Chạm bờ ánh sáng
Anh quỳ xuống
Em hiện thân trong chiếc
áo thiên thần
(Nghi lễ cuối cùng)
Có thể nói, hiếm có nhà thơ nào tôn vinh, tôn
thờ ánh sáng như Mai Văn Phấn. Trong
thơ ông, ánh sáng không đơn thuần là phạm trù đối lập với bóng tối, ánh sáng đã
trở thành biểu tượng của tâm linh, của niềm tin vào những gì sáng láng, tốt
lành. Như vậy, biểu tượng ánh sáng với hình tượng mặt
trời (cùng những hình ảnh tương đồng như ban mai, bình minh, ánh nắng) mang ý nghĩa của hành động gieo sự sống,
hi vọng, hơi ấm, sự sinh sôi.
Ánh trăng cũng là một bình diện sinh thái trong thơ Mai Văn Phấn. Ánh trăng được nhà thơ cảm nhận là “thoáng
long lanh cứu rỗi bao con người”. Trong quan niệm chung của con người mọi thời
đại, trăng tượng trưng cho cái đẹp. “Thoáng long lanh cứu rỗi bao con người”
khiến ta liên tưởng đến câu danh ngôn “Cái đẹp cứu rỗi thế giới”. Vẻ đẹp của
trăng là vẻ đẹp trong trẻo, long lanh, vẻ đẹp làm dịu mát tâm hồn con người, hướng
thiện.
Ánh trăng hòa vào lời hát của đôi lứa: “mầm hạt
li ti chồi trong đất ẩm ong về làm mật theo nhau rù rì mặt trăng”. Mặt trăng
cũng như “tuần tháng mật” trong thơ Xuân Diệu. Dưới ánh trăng, mầm hạt li ti
đâm chồi nảy lộc trong làn đất ẩm, ong về làm mật. Cũng trong cảm thức gần gũi
với biểu tượng mặt trời, mặt trăng (ánh trăng) cũng là ngọn nguồn của sự sống.
Trăng trong thơ Mai Văn Phấn được cảm nhận như những giọt trăng:
Nơi ấy một dòng kênh
Bóng con thuyền nhỏ qua cầu
Bờ đá nằm im nghe mồ hôi lạ
Giọt giọt trăng khuya
(Mùa trăng I)
Không giống với ông hoàng của thơ tình Việt
Nam hiện đại cảm nhận ánh trăng trong “Long lanh tiếng sỏi vang vang hận /
Trăng nhớ Tầm Dương nhạc nhớ người”, Mai Văn Phấn hình dung trăng khuya đọng lại
“giọt giọt”. Cũng không phải giọt vàng long lánh trên thuyền trăng, sông trăng
như thi sĩ họ Hàn “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó / Có chở trăng về kịp tối
nay?” mà giọt trăng trong thơ Mai Văn Phấn là giọt “mồ hôi lạ”. Một liên tưởng
hết sức thú vị. Trăng trong thơ Mai Văn Phấn mang ý nghĩa
biểu tượng cho sự trong trẻo, bình yên.
Hình ảnh ánh
sáng trực tiếp xuất hiện tuy không nhiều nhưng các đồng vị tương ứng của nó
như: ánh cầu vồng, ánh lân tinh, ánh hào
quang, tia chớp, tia sáng, ánh ngày,
ánh nắng, vệt sáng, rạng, chói lòa, chói gắt, ngọn nến, ánh đuốc, ngọn đèn, ngọn
hải đăng, que diêm, than hồng, trăng, sao, mặt trời... chiếm số lượng rất lớn.
Người ta đồng thuận với nhau rằng nơi nào có
ánh sáng nơi đó có sự sống. Ánh sáng biểu hiện cho sự sống sinh sôi, nảy nở,
cho cuộc sống minh bạch, chính đại quang minh. Thơ Mai Văn Phấn khai thác hình ảnh
ấy một cách rõ ràng, nhất quán. Mai Văn Phấn cũng có khả năng nắm bắt những khoảnh
khắc tạo nên sự sáng láng, lộng lẫy, nhiệm màu và rất đẹp của tổ hợp ánh sáng mặt trăng, mặt trời, vầng hào quang...:
Vươn thẳng
Tán cây quang hợp mặt trời
Lá chồng lên nhau hoan hỉ
Bật dậy thở chung dòng nhựa
Máu từ đất đai chạy qua
bàn chân
(Hình Đám Cỏ - Nhịp VI)
Hay là: “Có giọt sương đêm qua đang cựa mình thăng hoa dưới ánh mặt trời”
(Hải Phòng trước năm 2000).
Cùng với vai trò tái sinh thế giới, ánh sáng trong thơ Mai Văn Phấn còn
là chứng nhân tuyệt vời cho giây phút thăng hoa của tình yêu tuổi trẻ:
Anh bước lên vạt nắng
Một con thuyền ban mai
Em bảo hãy chờ để khóa chặt
cổng
(Vườn em)
Tuy nhiên, một điều dễ nhận thấy trong thơ ông là ngay cả ở những bài thơ
trực tiếp đề cập đến chuyện ái ân, công khai sử dụng các yếu tố dục tính như Được quyền nghĩ những điều đã ước, Gió thổi,
Mười bài tập mùa xuân, Dấu vết bình
minh... thì vẫn hết sức kín đáo
bởi dục tính ở đây hiện lên trong sự hướng đạo của ánh sáng tình yêu và
tính thiêng liêng của trạng thái phồn sinh nên về cơ bản là mang tính duy mỹ.
Ngoài ra, hình ảnh ánh sáng trong thơ Mai Văn Phấn còn là biểu tượng cho lẽ công bằng.
Ánh sáng quảng chiếu tội lỗi của con người:
Mặt trời lên
Một vị quan tòa
Từng nỗi oan
Dẫn ra từ bóng tối
Từng cái chết
Dẫn ra từ bóng tối
Mặt đất uy nghiêm
Minh bạch
Nhân từ
(Người cùng thời – Chương IV)
Ánh sáng còn có ý nghĩa của sự thanh lọc tâm
hồn. Nhà thơ dùng ngọn đèn sáng là phương tiện thanh tẩy tâm hồn và chất vun gọi
mùa xuân trở lại:
thanh tẩy mãi vẫn không thấy
sạch
quay về tắm bằng ngọn đèn
[...]
tắm gội cho mùa xuân
về
(Tắm đầu năm)
Công bằng mà nói, hình ảnh ánh sáng không có gì xa lạ trong thi ảnh
của nhiều nhà thơ. Nhưng trong thơ Mai Văn Phấn, ánh sáng bừng lên đồng nghĩa với
sự sống ngời hiện, đồng nghĩa với việc con người được thanh tẩy để trở về với cái chân – thiện - mĩ tự nhiên, vốn có mà tạo hóa đã ban
tặng. Thi nhân trong bài thơ đã “lặn” vào vùng sáng để rồi tâm hồn và thể xác bừng
lên trong ánh sáng ấy như ngọn lửa. Như vậy, trong thơ Mai Văn Phấn hình ảnh ánh sáng
tượng trưng cho sự sống, sự phì nhiêu, sinh nở, cho lẽ công bằng. Ánh sáng luôn đồng hành cùng những phút giây hạnh phúc của tình yêu tuổi
trẻ và nó còn là phương tiện thanh tẩy cả thể xác lẫn tâm hồn con người.
Thêm một biến thể nữa của hình ảnh ánh sáng trong thơ Mai Văn Phấn, đó là
hình ảnh ngọn lửa. Thực ra, ban mai hay ngọn lửa cũng chỉ là một dạng thức khác của ánh sáng. Tuy nhiên, nếu ban
mai là của đất trời thì ngọn lửa
lại là của con người, do con người tạo ra; và nếu ban mai có thể xua tan bóng đêm
thì lửa soi tỏ bóng đêm. Phải chăng vì nhận ra ý nghĩa của ngọn lửa trong đời sống
mà Mai Văn Phấn đã để hình ảnh lửa trong thơ ông xuất hiện nhiều đến thế. Theo
số liệu thống kê, hình ảnh ngọn lửa cùng những đồng vị của nó như đám cháy, bếp lửa, lưỡi lửa, tàn lửa, giàn lửa,
ngọn đuốc... xuất hiện 74 lần trong thơ Mai Văn Phấn.
Ngọn lửa luôn là biểu tượng của sự sống vùng
vẫy, của tình yêu cuồng nhiệt và của tuổi trẻ dạt dào. Ngọn lửa bao giờ cũng
biểu thị ý nghĩa lan tỏa, kết nối:
Cùng góp với ai ngọn lửa
Dẫu là mình thành lá khô
(Anh về)
Ngọn lửa còn là tình yêu biết đánh thức sự nồng ấm của những trái tim thậm
chí đã khô cằn từ lâu:
Xưa có con tim nào hóa đá
Để một ngày cho đá hóa con
tim
Để bàn chân ta sáng lên ngọn
lửa
Thắp lên phần cháy dở đêm
qua
(Người cùng thời – Chương I)
Ngọn lửa là tình yêu hay cũng là tình thương
mến bao la, ấm áp làm bừng sáng cuộc sống quanh ta:
Dáng cây ngơ ngẩn buông
chùng
Trái tim nhóm lửa ngập ngừng
ánh lên
(Người cùng thời – Chương
VIII)
Những hình ảnh tương tự với lửa như ngọn nến, đèn lồng, đèn hoa đăng... trong nhiều thời khắc khi được
thắp lên đã tạo ra một khung cảnh rất nên
thơ, một bầu không khí lãng mạn. Trong thơ Mai Văn Phấn, ngọn lửa cũng gắn liền
với thời khắc của hạnh phúc, của những thăng hoa trong tình yêu đôi lứa:
Hôn em một lần thắp thêm
ngọn nến
Đặt chúng bên nhau
Anh sợi tim nến
Lọn tóc sáng
Ý nghĩ làm ngọn lửa xòe
Nền nhà trôi đêm hoa đăng
Ai vừa thả mong ước
May mắn sớm mai
Tiếng trẻ reo hò
Tranh nhau thả thêm nhiều
nến
Vào căn phòng chúng mình
(Hình Đám Cỏ - Nhịp IX)
Nếu như nhà thơ Bằng Việt đã làm rung động
bao trái tim độc giả suốt hơn nửa thế kỷ qua với bài thơ Bếp lửa thì nay nhân vật trữ tình trong thơ Mai Văn Phấn cũng khắc
khoải trong nỗi nhớ bếp lửa, bờ sông... nơi quê nhà:
Rời thị thành
thương anh về thôn quê
Bếp lửa,
Bờ sông theo em vào giấc ngủ
Ký ức hồi sinh thật lạ
Bếp lửa...
Bờ sông...
chập chờn quang gánh chênh
chao
chỉ thăng bằng trong cơn
mưa tầm tã...
(Những bông hoa mùa thu)
Ngọn lửa còn là ngọn lửa sinh hoạt, nhân chứng
cho một thời khó khăn, lam lũ, một thời tuổi thơ đầy vất vả nhưng đầy ắp yêu thương,
hồn nhiên và sẵn sàng làm chúng ta xúc động khi có dịp nghĩ tới, chạnh lòng:
Chăn trâu đốt lửa trên đồng
Rạ rơm thì ít gió đông thì
nhiều
Mải mê đuổi một con diều
Củ khoai nướng để cả chiều
thành tro
(Chăn trâu đốt lửa - Đồng Đức
Bốn)
Từ khi con người tìm ra lửa thì cũng từ đó,
ngọn lửa gắn bó với họ trong mọi hoạt động sống, chứng kiến bao nỗi thăng trầm
của biết bao nhiêu thế hệ con người:
Từ trong bếp lửa gió lùa
Loanh quanh hồn vía người
xưa đứng ngồi
Lửa theo hưng thịnh bao đời
Tro than gieo vãi về nơi
cấy cày
(Người cùng thời – Chương
VIII)
Tương tự như nước, lửa vừa có sức vun đắp,
khơi ngợi sự sống vừa có sức phá hủy, tàn phá: “than bỏng nướng cong con cá
bánh đa phỏng rộp cuộn mình lưỡi lửa bò lan khắp không gian” (Những bông hoa mùa thu).
Do đó, hình ảnh ngọn lửa trong thơ Mai Văn Phấn vừa biểu tượng cho sự sống đầy ham
muốn, tuổi trẻ đầy nhiệt huyết, tình yêu đầy cuồng nhiệt... và
còn là biểu hiện của những giây phút lãng mạn, bốc lửa trong tình yêu đôi lứa.
Bên cạnh đó, ngọn lửa còn biểu hiện
cho nỗi nhớ quê hương da diết và đồng hành với con người qua bao sóng gió, khó
khăn.
Tựu chung lại có thể thấy, trong thơ Mai Văn
Phấn, ánh sáng trở thành biểu tượng của
sự sống phì nhiêu, sinh nở, cho lẽ công bằng. Ánh sáng đồng hiện trong những phút giây thăng hoa của hạnh phúc lứa
đôi. Ánh sáng có khả năng thanh tẩy
con người cả thể xác lẫn tâm hồn.
2.2.1.2. Biểu tượng ngọn
gió, giọt sương, chim muông
Bầu trời với màn sương trong thơ Mai Văn Phấn
là điểm nhấn đa nghĩa. Màn sương tan báo hiệu bình minh đến, một ngày mới bắt
đầu, lá cành lại phô bày màu xanh trước vạn vật:
Khi sương tan cành biêng
biếc xanh
(Màu xanh)
Màn sương cũng báo hiệu đêm xuống, côn trùng
tỉnh dậy, những cây nấm rơm mở mắt (Giai
điệu xuân). Màn sương cũng là dấu hiệu của các mùa trong năm. Trước hết là
mùa thu, mùa của những xuyến xao trong tâm hồn. Thu như người con gái trinh
nguyên trong vẻ đẹp “e ấp”, “lãng đãng” làm mê mẩn thi nhân qua bao thời đại. Vẻ
đẹp ấy lại càng thêm lung linh trong màn sương giăng mắc. Chỉ với 2 dòng thơ 10
chữ đủ làm thổn thức trái tim độc giả:
Thu về e ấp
Cốm non lãng đãng sương
giăng
(Cốm hương)
Màn sương cũng là một hiệu ứng của thiên nhiên trong đêm trăng mờ ảo:
Trăng đã về bên kia
Phủ lên những nụ hôn khác
Màn sương, mùa cỏ khác
(Mùa trăng)
Hình tượng màn sương gắn với những hình tượng khác như nóc nhà, đỉnh núi và mây trắng
quấn quanh. Sương cũng là một môi
trường mà ở đó sự sống diễn ra. Con vạc dưới sương tìm mồi, côn trùng kêu trong sương.
Hình tượng gió trong thơ Mai Văn Phấn rất đặc sắc. Trong mối quan hệ với thiên
nhiên, gió là bạn của cây cối nhưng cũng là những sản phẩm của tự nhiên mà loài
cây có thể khai thác. Trong một bài thơ, Mai Văn Phấn hình dung cây cối vươn
lên ngọn cây như mỏ loài chim mớm từng “hớp gió” để lấy hơi hoặc chuẩn bị réo rắt
lên trong không gian. Gió mưa, sấm chớp là biểu hiện của thiên nhiên, giúp
thiên nhiên, khí hậu điều hòa, vạn vật sinh sôi nảy nở. Gió cũng là một hình tượng được dùng để ví von như những nguy hại,
hiểm nguy trong tương quan với chùm quả nặng đung đưa để nói về sự nguy kịch
trong tình trạng sức khỏe của người cha:
Cơ thể cha tựa sông cạn, củi
khô, hạt lép
Chùm quả nặng đung đưa gió
mạnh
(Cửa Mẫu)
Gió cũng góp phần làm nên giai điệu mùa xuân,
khi những con ong rạch đường bay, cây cao vươn bóng thì ngọn “gió lên thẳng
đứng”. Gió trong tự nhiên mà được cảm nhận như thân thể sống trong tương quan
với những mỏm đá sắc, Mai Văn Phấn cảm nhận dường như gió bị trầy xước. Gió là
biểu tượng của sức mạnh vừa mạnh mẽ vừa uyển chuyển:
Phải dằn dữ và cũng mềm
như gió
Gió từ biển xanh mang sắc
của trời
(Màu xanh)
Gió được coi như một bàn tay của thiên nhiên biết đi trên lá và nhặt những
chiếc lá rơi:
Ngoài vườn gió thu đang x
o lên tán lá
Phải tĩnh tâm để bàn tay
hoang dã
Cúi
nhặt từng chiếc lá rơi.
(Mơ thực)
Chim chóc bay đi để lại không gian cánh đồng
mênh mông hoang vắng chỉ có gió lộng:
Con chim bay
vút lên không
Ðể lại gió với cánh đồng rộng
thênh
(Không đề I)
Chim chóc trong thơ Mai Văn Phấn là một nhân
vật sống động và đa dạng. Đó là những con chim gõ kiến chạm môi vào các cây cổ
thụ, là chim hải âu dang cánh biển sâu, chim cắt trong không gian rộng như đường
bay bất tận, tiếng chim gù nơi bờ giậu, cây rơm, vại nước, chim sâu trong bụi rậm,
chim yếu trên vách đá lơ phơ. Đó là tiếng chim chóc quyện vào nhau vào mỗi buổi
chiều buông, là tiếng chim bình minh cất tiếng hót sáng choang mơ mộng. Chim
chóc trong thơ Mai Văn Phấn còn rất phồn thực trong chùm hình ảnh liên quan đến
sự sinh sôi, nảy nở như quả trứng, cửa sông nghẹn nước, hạt giống trong đất ẩm:
quả trứng ấm lăn vào trong
tổ
cửa sông căng
đầy nghèn nghẹn lúc trăng lên hạt
giống mới thả mình trong đất ẩm
và bầy chim đang tìm nhau
giao phối ở trên cao...
(Những bông hoa mùa thu)
Trong cảm quan sinh thái của mình, biểu tượng
bầu trời mà Mai Văn Phấn xây dựng
cùng trường nghĩa với sự sống, sự chở che, bao bọc, sự đa màu, đa sắc sự huyền
diệu bao la. Bầu trời kết hợp với các yếu tố tự nhiên khác tạo nên môi sinh cho
vạn vật. Chính bầu trời là mái nhà chung che chở cho những thành viên trong
ngôi nhà ấy kể cả con người. Bầu trời còn là nơi điều tiết khí hậu điều tiết hoạt
động sống của thế giới ấy. Vượt qua hình ảnh giản dị, bầu trời
trở thành biểu tượng cho ước mơ, hoài bão, hy vọng, trở thành hình mẫu lý tưởng
của cuộc sống con người. Trong bầu trời rộng lớn ấy, những thực thể như ngọn
gió, giọt sương, chim muông dù nhỏ bé nhưng không vô nghĩa. Chúng hội tụ để làm
nên một hệ sinh thái an lành. Hơn thế, chúng được nhà thơ cấp cho những ý nghĩa
biểu tượng không kém phần giá trị. Sức hút của thơ Mai Văn Phấn với độc giả yêu
thơ chính là bởi những biểu tượng vừa gần gũi vừa tinh tế và đẹp đẽ như thế.
2.2.2. Hệ biểu tượng về mặt đất
2.2.2.1. Biểu tượng đất
Đất là hình ảnh thiên nhiên đa
nghĩa xuất hiện nhiều trong thơ Mai Văn Phấn.
Đất là nơi sinh sôi, cư trú của muôn
loài, vạn vật. Ở đó mọi vật được sinh ra rồi lớn lên, thoát xác:
Con sơ sinh trên đất
Bơi qua sông con nòng nọc
đứt đuôi
Tập vỗ cánh, quạt gió vào
lòng tổ
Bật lá mầm bay đi thênh
thang
(Cửa Mẫu)
Những hình ảnh nòng nọc đứt đuôi, tập vỗ
cánh và bật lá mầm là những biểu trưng cho sự lớn dậy trưởng thành, thử
thách bước vào cuộc sống.
Hình ảnh đất
trong tâm thức của người dân Việt Nam là biểu trưng cho người mẹ đại diện cho sự
sinh sôi, nảy nở, sự đùm bọc chở che, sự yên bình, thanh thản. Trong tâm tưởng
văn hóa của nhân loại, đất đai cũng mang tính mẫu, gắn liền với sự thoát thai của
vạn vật. Thần thoại Hi Lạp kể lại rằng, mẹ đất Gaia sinh ra Bầu trời để che phủ
khắp thế gian, làm nơi trú ngụ của các vị thần. Mẹ đất cũng sinh ra con người.
Bất kể là thần linh có phép màu nhiệm hay nhân loại nhỏ bé khi gặp nguy nan đều
kêu cầu mẹ đất chở che. Nhân gian sinh ra từ đất và cuối cùng cũng an nghỉ nơi
lòng đất. Từ quan niệm đó, đất đai biểu tượng cho sự sinh sôi, là nơi cội nguồn
của sự sống.
Nếu đất xuất hiện trong thi ca thường gắn với
sự trở về khi cuộc sống kết thúc, là chốn vĩnh hằng bao bọc con người: “Vui vẻ
chết như cày xong thửa ruộng / Lòng nhẹ khỏe anh dân quê vui sướng / Ngả mình
trên liếp cỏ ngủ ngon lành / Và trong mơ thơm ngát lúa đồng xanh” (Trăng trối – Tố Hữu), “Bây giờ dưới gốc
dương / Chị nằm nghe biển hát” (Trên
đường ra Côn Đảo
– Phan Thị Thanh Nhàn), “Áo bào thay chiếu
anh về đất / Sông Mã gầm lên khúc độc hành” (Tây Tiến – Quang Dũng) thì đất trong thơ Mai Văn Phấn trước hết
mang ý nghĩa biểu tượng cho sự sinh sôi của sự sống.
Đất là nơi che chở, nuôi nấng, ươm mầm sự sống
đầy khao khát và sự sáng tạo:
Lao vào đất những ngón
chân khát nước
Chiếc lá mới nhô lên đặt lại
ca từ
(Sáng mùa hè)
Cuộc sống dẫu có nhọc nhằn, gian khó đến bao
nhiêu, con người vẫn khát khao sinh tồn trên đất, hướng về đất. Đất trở thành
nơi nuôi dưỡng, đất tái sinh. “Chiếc lá mới nhô lên đặt lại ca từ”. Chỉ cần có
đất và với đất, sự sống phôi thai, nuôi dưỡng hi vọng.
Sự sống được vun đắp và khởi nguồn nơi lòng
đất: “Hạt giống mới nảy mầm trên đất, gọi dòng sông lên tiếng thở sâu, cùng mương
máng dọc ngang đến giờ mở mắt” (Người
cùng thời – Chương III).
Đất hay biến thể của nó là bùn nâu cũng được nhìn nhận và khai
thác ở khía cạnh khởi nguồn sự sống:
Trên ngực bùn nâu đã linh
thiêng ban lộc
Máu hồi sinh rần rật chạy
qua
[...]
Tôi gượng
dậy giữa cánh đồng rộng lớn
Có con nước cường chảy dọc sống lung
(Hồi sinh)
Đất đai với những cánh đồng rộng lớn mênh
mông, bùn nâu với dấu chân người ngàn năm vẫn gieo trồng gặt hái. Trong thơ Mai
Văn Phấn, cánh đồng là một biểu tượng giàu ý nghĩa. Những cánh đồng phì nhiêu, màu
xanh ngút ngàn gợi sự ấm no, bình yên
đến lạ. Cánh đồng như vòm ngực rộng,
như đôi tay khổng lồ ôm trọn lấy những con người lao động, mang lại cuộc sống, ước
mơ. Cánh đồng thênh thang ru vỗ tâm hồn con người, nhân gian trọn đời an nhiên
trong màu xanh mướt mát.
Nhà thơ còn muốn tạo dựng cho người đọc hình
dung về cuộc sống đa dạng, tốt tươi và chứa đầy sự sinh sôi, nảy nở:
Đất mỡ màu quyện
rạng đông dâng lên khuôn mặt
dâng lên cỏ cây phồn thực bời bời
(Bài hát mùa màng)
Trong hoạt động sáng tạo của mình, Mai Văn
Phấn luôn có ý thức kiếm tìm một thiên nhiên thuần khiết để nuôi dưỡng tâm hồn
con người trước những đảo điên của nhân gian vô thường, của cuộc sống hiện đại
xô bồ. Vì thế, trong thơ ông, đất tượng
trưng cho vẻ đẹp phồn sinh của sự sống gắn với sự phì nhiêu và sinh sôi. Trong
thơ Mai Văn Phấn, đất xuất hiện 312 lần. Cùng với đất là những hoạt động đi kèm với “công cuộc gieo trồng như hạt giống,
cánh đồng (thửa ruộng), nụ mầm, mùa màng, gieo trồng, cày cuốc,… Cánh đồng xuất hiện 74 lần và mùa màng là 64 lần. “Bài hát mùa màng” như một
khúc hoan ca ngợi ca “đất mỡ màu”, “vòng phù sa”. Đất sinh sôi mang về sự sống:
“Lan nhanh, choáng ngợp đất hoang vừa mở”.
Gắn liền với đất đai là sự xuất hiện của những
chi tiết về mùa màng. Nhà thơ nhìn tương
quan giữa cánh đồng và đám mây qua điểm nhìn của những gốc rạ:
Cánh đồng nhìn mây bằng gốc
rạ tươi
(Quyền lực màu thu)
Nhà thơ miêu tả mùa vụ như một bài ca mà ở đó
vang vọng về khúc ca của tổ tiên từ thời còn mò mẫm làm ra hạt lúa:
Lại vỡ bài ca gieo hạt
Tiếng trầm hùng qua thanh
đới tổ tiên
Như cố dạy giọt mồ hôi học
nói
Cỏ lác u sầu biết gượng mà
đi
(Thời vụ)
Đôi khi không hẳn đất là hình ảnh trung tâm, mà đất
là hình ảnh đi kèm theo những biến động và những hình tượng khác để cùng tôn
vinh lẫn nhau, cùng biểu trưng cho những thông điệp mà tác giả gửi gắm:
Từng chiếc sừng trâu nhô từ
hốc tối
Đội đất lên cho cỏ mọc
Thổi hơi ẩm vào nơi mục rã
Những vong linh vật vã đòi
tái sinh
(Mùa hạ rất gần)
Đất là cuộc đời, là lịch sử, là ông cha bao
thế hệ. Đất chuyển hóa trong mỗi kiếp người, con người được tái sinh từ đất.
Nhà thơ Mai Văn Phấn từng có những đánh giá
rất đặc biệt về đất khi tạo ra sự tương quan giữa đất và những suy tư, những cảm
nhận của con người:
Mẹ ơi mẹ! Giờ con thấy
bóng râm từ bùn đất
Đất ở dưới chân mà cao hơn
những suy nghĩ của mình
(Nhật ký đô thị hóa)
Với cái nhìn tôn vinh, ngưỡng vọng đất đai,
nhà thơ nhận thấy “đất ở dưới chân”. Nhưng điều đáng trân quý là đất không tầm
thường dưới những bàn chân mà đất lại “cao hơn những suy nghĩ của mình”.
Điều mới lạ trong cảm quan về đất trong thơ
Mai Văn Phấn là hình ảnh đất đai còn
được ví von với hình tượng người đàn ông:
Đất đai - người đàn ông nằm
ngủ
[...]
Trên ngực còn vương
tro than của mùa đốt đồng
(Sau mùa gặt)
Nhà thơ đã vận dụng nghệ thuật ẩn dụ một cách
hiệu quả. Nhà thơ so sánh ngầm hình ảnh đất đai sau vụ mùa với hình ảnh người
đàn ông nằm ngủ một cách rất phong trần. Sự so sánh ấy khiến ta liên tưởng tới
hai hình ảnh, một hình ảnh khỏe khoắn của thiên nhiên và con người, hai là hình
ảnh đầy phồn thực, khi người đàn ông nằm ngủ đầy trễ tràng như sau giờ hoan lạc
nhằm cho cuộc sinh sôi to lớn, giúp cho thế giới sống lại. Đất đai cũng là hình
ảnh mà nhà thơ Mai Văn Phấn dùng để nói về sự giao hòa của con người, sự giao
hòa của tạo vật:
Anh mơ được em gieo trồng
trên ngực
Bàn tay dịu dàng vun vào
da thịt
Hôn lên tai anh lời chăm
bón thì thào
Anh cựa mình nồng nàn tươi
xốp
(Bài ca buổi sớm)
Nếu Nguyễn Quang Thiều chỉ dừng lại ở việc “Gọi
tên linh hồn đất/ Bằng cách gieo âm tiết của riêng mình”, vẫn còn một khoảng
cách giữa đất với nhà thơ thì Mai Văn Phấn lại muốn hóa thân vào đất, người với
đất nhập thân, trở thành một bản thể duy nhất. PGS. TS Lê Hồ Quang đã gọi điều
này là “một sự lạ cần thiết. Nó phơi lộ cái góc khác thường trong bản thể tinh
thần cái tôi Mai Văn Phấn”.
Mai Văn Phấn được đánh giá là nhà thơ có khát
vọng làm mới mình trong mỗi lần sáng tác. Hình ảnh đất đai chính là khát vọng
mà nhà nthơ gửi gắm vào thơ ca của ông. Nhà thơ cũng mong sự sáng tạo, cách tân
của thơ ông luôn dạt dào như sự tái sinh của đất đai vậy. Ông từng bày tỏ khát
vọng ấy trong câu thơ: “Ta thèm một lần nhân danh đất đai” (Khúc phóng túng), thậm
chí sẵn sang “chết đi cho mọi sự sinh ra”. Có thể thấy rằng, hình ảnh đất đai
là biểu trưng cho những giá trị bất biến của văn hóa Việt Nam, là phương tiện
cho việc thể hiện thông điệp nhân sinh, khát vọng sáng tác của nhà thơ đồng thời
là biểu hiện của sự cách tân, sáng tạo trong thơ ca Mai Văn Phấn.
Đất và không gian trong tâm thức nhà thơ đôi
khi biến thành một sự xóa nhòa các ranh giới vạn vật. Có nghĩa là trong hình ảnh
của một đối tượng này lại hiện hữu những đối tượng khác hoặc liên hệ tới hình ảnh
của những đối tượng khác. Nhà thơ gọi đó là hiện tượng mà:
Những thửa ruộng, nóc nhà,
bóng cây, mái tóc...
Chuyển động lặng im, vụn rời,
không quy luật
(Cấu trúc tạm thời)
Trong hiện tượng đó, hình ảnh thửa ruộng lại vươn lên cao hơn những
mái nhà, những bóng cây mang dáng hình mái tóc, sự hạn hán mang hình ảnh của sự
nứt nẻ chân chim, tia nắng cuối chiều vạch lên nền trời như những sợi tơ không
gian:
Kìa thửa ruộng
kia đang vươn lên che chở những ngôi nhà
Và bóng cây cố hiện thân thành mái tóc
Cơn hạn hán
réo sôi trong bàn chân chim chóc
Tia nắng cuối chiều mơ mộng kéo thành tơ
(Cấu trúc tạm thời)
Đất là phương diện sinh thái xuất hiện nhiều
trong thơ Mai Văn Phấn. Gắn liền với biểu tượng đất là những chi tiết, hình ảnh về cỏ cây, hoa lá và những mùa vụ. Thông qua cách thể hiện của nhà thơ và thông qua mối quan hệ
giữa những hình ảnh biểu tượng, phương diện sinh thái đất thể hiện những đặc trưng về cảm quan sinh thái của Mai Văn Phấn
như sau: Thứ nhất, đất là nơi sinh
sôi, chở che vạn vật, vạn vật sinh ra từ đất, lớn lên từ đất và khi mệnh cùng
thì lại trở về với đất. Thứ hai, đất
chính là biểu tượng của sự sinh sôi nảy nở và trường tồn. Thứ
ba, đất là biểu tượng sự sống gắn với
con người, với tình yêu thương, tình yêu đôi lứa của nhân loại. Thứ tư, đất là chất liệu của nghệ thuật là hiện
sinh của nghệ thuật trong cuộc sống.
Như vậy, đất
đai trong thơ Mai Văn Phấn biểu tượng cho sự phồn sinh, đất là nơi bắt đầu của sự sống,
đất là nơi “cội nguồn thế giới”.
2.2.2.2. Biểu tượng nước
Nước đóng vai trò quan trọng đối với tự nhiên
và con người. Trong tự nhiên nước là thành tố quan trọng bậc nhất để điều tiết
khí hậu và nuôi sống vạn vật. Nước được coi là vật chất đầu tiên cấu tạo nên vũ
trụ. Địa cầu chúng ta nước chiếm ¾ diện tích. Đối với con người, nước cấu tạo
nên cơ thể và duy trì sự sinh tồn. Trong cơ thể con người chiếm hơn 70% là nước.
Và không chỉ là khởi nguồn sự sống của con người và mọi loài sinh vật trong vũ
trụ, nước trong tâm thức của người Việt còn gắn liền với đời sống lao động sản
xuất, nghề nghiệp, lối sống, cách ứng xử, cảm quan triết lý, tâm linh và tín ngưỡng
riêng. Bởi lẽ, người Việt thuộc nhóm cư dân trồng lúa nước điển hình ở Đông Nam
Á và cũng là chủ nhân của nền văn minh lúa nước ở khu vực này.
Tính chất của nước rất linh hoạt, đa dạng và ẩn
chứa những điều tưởng chừng như là đối lập lẫn nhau. Nước linh hoạt vì là chất
lỏng không hình dạng, có thể khuôn vào mọi vật chứa. Nước tồn tại ở rất nhiều dạng
thể rắng, lỏng, khí, hơi... Nước có thể dâng lên cao, cũng có thể chảy xuống thấp.
Nước vừa duy trì sự sinh tồn vừa có thể phá hủy sự sống. Nước vừa là biểu tượng
của sự thanh lọc nhưng cũng vừa là biểu tượng của sự ngập tràn, ô uế. Như vậy
biểu tượng mà nước ngụ ý rất phức tạp, mâu thuẫn. Chính vì vậy nước là chất liệu
rất đặc biệt trong sáng tác văn học. Thơ Mai Văn Phấn cho xuất hiện hình ảnh nước lên đến 691 lần. Nước trong thơ Mai
Văn Phấn xuất hiện trong nhiều dạng thể sông,
hồ, ao đầm, suối, đại dương, bể, mạch ngầm, dòng chảy, thủy lực... mưa, hơi, khí... Càng về sau, thơ Mai Văn Phấn xuất hiện
càng nhiều hình ảnh của nước.
Vào giai đoạn đầu trong lộ trình thơ Mai Văn Phấn, nước biểu tượng cho sự luân lưu, tuần hoàn về thời gian, mùa màng
và số phận hạn hữu của con người:
Hóa thân giọt nước mùa hè
Một đêm trở gió bay về với
thu
(Khúc cảm mùa thu)
Ở giai
đoạn thứ hai, đặc biệt là trong trường ca Người
cùng thời, tính chất linh hoạt của nước tiếp tục được khai thác và thể hiện
rất thành công:
Một người để nước mắt rơi
Mặn mòi lăn khắp mặt người
yêu thương...
(Người cùng thời - Chương IV)
Nước không còn là giọt nước trong lành của tự
nhiên, nó đã chuyển hóa thành giọt nước mặt mặn mòi. Giọt nước chan hòa trên
khuôn mặt của những lứa đôi. Giọt nước kết nối những trái tim yêu.
Không chỉ vậy, nhà thơ còn khám phá mới mẻ
độc đáo về hình ảnh của nước trong câu thơ:
Thoáng đâu vại nước hoa
cau
Nơi cha mẹ đã tin nhau một
đời
(Người cùng thời - Chương V)
Hình ảnh “vại nước hoa cau” là một hình ảnh
dung dị mà tạo ra nhiều cách hiểu. Đó có thể là vại nước có hoa cau rụng xuống,
vại nước đặt ngoài sân dưới cây cau hay bất kì vại nước nào khác của làng quê
Việt thanh bình thời xưa... Đó có thể được đánh giá là một cách kết hợp hoàn
toàn mới lạ. Hình ảnh ấy cũng dung chứa những ý nghĩa thật đẹp. Trong tâm thức
của người Việt, cành cau – cơi trầu là vật giao duyên, vật kết đôi. “Vại nước
hoa cau” mát lành nơi mẹ cha từng in bóng, trao cho nhau tín vật nên nghĩa phu
thê. Cũng có thể hình dung một cách lãng mạn, vại nước hoa cau nơi cha đã múc từng
gáo nước cho người mình yêu gội mái tóc thề. Và trăm năm, một cuộc đời phôi
thai từ đó.
Không dừng lại ở ý nghĩa linh hoạt, biến hóa,
tượng trưng cho thời gian, kiếp người, nước
trong thơ Mai Văn Phấn còn là biểu tượng của sự tái sinh, của khả năng sinh
sôi, nảy nở và của sự thanh tẩy: “Đã tỉnh lại cánh đồng mỏi mệt trong hạt mưa
vang tiếng sấm đầu mùa, những khoai sắn tự tin trong đất, lúa chạy thẳng hàng
chân không vướng vào nhau” (Người cùng thời
- Chương III).
Và:
Ta gọi nhau trước rạng
đông lúc còn mê ngủ
Ánh sáng tràn qua thanh bạch
dịu dàng
Anh cùng em tái sinh từ
nước trong, khí sạch
Nụ hôn bay lên tắm rửa
bình minh
(Người cùng thời - Chương IX)
Hay:
Nước ấm nóng mở đầu nghi lễ
thanh tẩy
Lăn trơn anh chuỗi hạt xổ tung
(Hình Đám Cỏ - Nhịp IV)
Trong cảm hứng dồi dào, nhà thơ Mai Văn Phấn
viết về nước với ý niệm của sự sống
đầy ắp, sự luân hồi tái sinh trong cả thể xác và tinh thần. Mạch thơ ấy biểu hiện
rõ nhất trong lộ trình thơ thứ ba của ông. Nước
trong dạng thể của những hạt mưa dường như bao phủ lên vạn vật tràn trề sự sống,
sự mát mẻ của thể xác, tâm hồn và sự dâng lên mạnh mẽ của tình yêu lứa đôi: “Những
hạt mưa rơi xuống. Em nhắc chúng ta từng là giọt nước. Trong lành em rơi xuống
anh. Để anh biết thiên nhiên và đồ vật quanh mình đều bằng nước” (Mưa trong đất).
Giọt nước rơi xuống là sự sống vươn lên, sự sống
được nén thành ý niệm trong những giọt nước của đất trời:
Một giọt nước vừa tan
Một mầm cây bật dậy
Một quả
chín vừa buông
Một con suối vừa chảy
(Nghe em qua điện thoại)
Tình yêu nam nữ có thể làm thành sức sống tiềm tàng, cứu vớt thế giới:
Em và anh tụ thành nước
mát
mưa xuống những nụ hôn làm
lại thế gian
(Những bông hoa mùa thu)
Hai câu thơ làm gợi nhớ tới những câu thơ cắt
nghĩa về các thành tố Đất và Nước của Nguyễn Khoa Điềm: “Đất là nơi anh đến trường
/ Nước là nơi em tắm” hay ước nguyện được hóa thân của người phụ nữ trong tình
yêu để muôn đời được sống mãi, để tình yêu trường cửu: “Làm sao được tan ra /
Thành trăm con sóng nhỏ / Giữa biển lớn tình yêu / Để ngàn năm còn vỗ”. Thế nhưng,
hình ảnh “em và anh tụ thành nước mát” trong thơ Mai Văn Phấn mới thật tinh tế,
mới mẻ. “Em” và “anh”, hai cá thể độc lập, sợi dây gắn kết là tình yêu, trong
tình yêu ấy đôi ta đã hòa vào nhau thành một dòng nước mát lành làm nên một
tình yêu cao đẹp và thánh thiện. Không dừng lại ở đó, tình yêu của “anh” và “em”
không còn là thứ tình cảm riêng tư nữa, nó đã hòa vào dòng nước chung của cõi
nhân gian trong một cơn mưa. Tình yêu ấy góp phần dựng xây lại thế giới này, để
cõi người thực sự “người” hơn.
Ngoài ra, Mai Văn Phấn còn có những khám phá
rất lô gic và đầy tính nghệ thuật về nước. Nước đơn thuần là một yếu tố của
sinh thái, là vật chất lỏng chảy lan trên mặt đất hay ngầm trong cách mạch địa
đạo, là môi sinh của các sinh vật. Đó là “mặt nước bình lặng ngoài kia”, là
dòng nước đục để lũ cá cơm sinh sôi, sống sót. Đó là hồ nước mà ông John
Wilfred Harper Fullerton Dickie, phụ thân nhà thơ Susan Blanshard đã băng qua
trong hành trình có cả cánh đồng lúa mì, cải dầu, hoa oải hương và những mái
nhà lợp bằng rơm rạ. Đó môi sinh và hơn vậy là tiêu chuẩn sống của các loài
sinh vật, trong đó con người không ngoại lệ:
Con người
Cỏ cây
Muông thú
Sống nhờ nước
Soi mình vào nước
(Mở)
Thiếu nước hình ảnh của các loài cây thật thiếu
sức sống: “cây thiếu nước rũ xuống không xa dòng sống căng mình lộng lẫy” (Nơi trời rộng). Nước là hiện sinh của cuộc sống, là mặt nước in bóng bầy sâm cầm
bay theo ngọn gió, con thiên nga sải
cánh rộng lướt bay xa. Đôi khi hơi nước hòa vào nắng sớm để phủ lên hình ảnh của
đôi trai gái yêu nhau bên bờ kênh Griboedov. Nước là mặt hồ thu ở nước Nga xa xôi. Nước là hình ảnh bình dị của thôn quê Việt Nam:
Nước lùa bóng ao lên chót
vót
ngập cuống nhau rã phận
hoa bìm
lối về thấp thỏm
(Làng)
Nước là hình ảnh được dùng làm đối
tượng so sánh cho mùa thu. Trong cảm
quan của Mai Văn Phấn, mùa thu đến như con nước tràn về lan vào cảnh vật và bầu
trời như một cái ao sâu chứa đựng những biến động lớn lao ấy.
Trời như cái ao sâu
Thu ùa về như nước
(Thu về)
Nước được làm tiêu chuẩn cho đôi mắt của con chim trắng mỏ hồng. Nước là biểu tượng của sự đơn lẻ hòa mình sự mênh mông,
bao la rộng
lớn. Đó là giọt nước hòa vào dòng sông lớn cùng với hình ảnh của đàn kiến
lang thang tìm được hướng đi, chiếc lá rụng về mặt đất trên thảm cỏ bao la.
Nước còn là biểu hiện của sự giao
hòa giữa con người và thiên nhiên. Nước
dồn lại từ những hạt sương, ngọn suối, dòng sông đổ ra biển, đó là nước của
thiên nhiên. Những dòng nước thiên nhiên ấy thấm vào da thịt con người, chảy
trong cơ thể con người. Đó là phần thiên nhiên trong mỗi con người:
Đi rửa chân khắp nhân gian
Nước vẫn bên tôi tinh khiết
(Nước đang chảy qua trái đất)
Và không chỉ có con người, nước là sự giao hòa giữa thiên nhiên và
trăm loài vạn vật trong sự trường tồn của tạo hóa:
Căng đôi mắt
Thấy mọi người cùng cảnh vật
Rùng mình để nước đi qua
(Nước đang chảy qua trái đất)
Sông quê bến nước trong thơ Mai Văn Phấn
không chỉ biểu hiện của phương diện sinh thái mà còn là biểu tượng của quê hương,
cố hương, của những giá trị truyền thống. Trong xã hội kim tiền, người người chạy
đua theo giá trị thị trường, lòng tham đã làm tiêu cực hóa con người, nhà thơ
băn khoăn về các giá trị xưa cũ có còn tồn tại với trào lưu xã hội ấy.
Máu tham, vàng lấy mất hồn
Sông quê bến nước có còn
đầy vơi
(Khúc hát của người mẹ đi tìm vàng)
Mặt nước cũng là “phế tích” của sự bồng bột của trẻ thơ trong bài thơ Đất mở trong tập Vách nước.
Nước là biểu tượng của sự thuần khiết
tự nhiên, là sự trường tồn của tạo hóa, có sức khai tỏa, sức thanh khiết
cuộc sống.
Máu Chúa hòa nước sạch
Rửa tội cho cộng đồng
(Nguyên Hồng vào nhà thờ)
Sự trường tồn ấy đã có lúc được nhà thơ gọi thành tên: “Con hà sặc khói
hun mở miệng luận bàn về sự bất tử của nước và thoáng chốc một con thuyền”
[16].
Nước rõ ràng là một phương diện sinh thái nổi bật trong thơ Mai Văn Phấn. Đó là biểu hiện của thiên nhiên,
tự nhiên: “Nước chảy dưới tầng sâu”, “Nước phun mát hành tinh”. Đó là biểu hiện
của sự giao hòa giữa thiên nhiên và tạo vật: “nước trào qua trảng cỏ”, “nước
dâng lên tán cây”. Đó cũng là biểu tượng của những giá trị tinh thần, những giá
trị truyền thống mềm dẻo và bất biến. Nhìn chung, ý nghĩa biểu tượng nước trong thơ Mai Văn Phấn cũng không nằm
ngoài ý nghĩa của biểu tượng này trong nền văn hóa nhân loại: Nước là khởi nguồn của sự sống, mang tính linh hoạt, sự phồn sinh, sự tái sinh, sự thanh tẩy...Nhưng
dưới ngòi bút đầy khát khao sáng tạo và mong muốn được ghi dấu ấn trong dòng chảy
của văn học dân tộc, Mai Văn Phấn đã làm sinh động hơn, giàu có hơn cho biểu tượng
vốn đã quen thuộc này.
2.2.2.3. Biểu tượng cỏ
cây, hoa lá
Hình ảnh hoa
lá cũng là hình ảnh thường thấy trong thơ Mai Văn Phấn. Hoa trong thơ Mai
Văn Phấn gắn với hình ảnh người trồng hoa. Người trồng hoa có nỗi khổ của người
trồng hoa vì có mùa hoa nở có mùa hoa không nở. Người trồng hoa không chỉ trồng
bằng nắng mưa, mây gió mà còn trồng bằng mồ hôi, nước mắt một đời. Hoa là cuộc
đời và cũng là nhân chứng cho sự lao khổ của người lao động:
Trọn một kiếp người
Hoa uống cạn nước mắt với
mồ hôi
(Lời người trồng hoa)
Không gian mùa hè với các loại cây lá trong cảm
nhận của nhà thơ như những sinh thể sống động hòa vào không gian thời tiết:
Em đã nghe
Nên gốc cây vừa tưới mới
ngấm nhanh đến thế
Vòm phượng vĩ đẫm sương
sáng nay bốc cháy
Những quả ngô đồng khô nỏ
khua vang
(Sáng mùa hè)
Trong không gian đầu mùa thu, cảnh vật như
còn là kết quả của sự chuyển đổi thời gian, thời tiết. Trên các ngọn cây, ngóc
ngách, mùa hè vẫn còn lưu lại bởi ánh nắng của mình. Mùa hạ qua đi cũng là mùa
hoa sen tàn, những bình gốm từng cùng những bông sen trang điểm cho chiếc bàn,
cho căn phòng giờ trở nên trống trải. Những ngày hè qua đi cũng là sự qua đi của
những ngày mà đôi bờ hồ bỏng rát bởi nắng nóng và cũng là sự qua đi của những
cơn giông bão, sấm chớp bất ngờ. Trong cảnh sắc của tạo hóa ấy, chiếc lá của
nhà thơ Mai Văn Phấn dường như là một nhân thể đang suy tư, trăn trở và giữ nhiều
câu chuyện chưa nói trong lòng:
Chỉ những chiếc lá chưa
vàng vẫn một mực khăng khăng:
- Những gì chưa đến thì đừng có nói
(Đầu thu)
Hoa cúc trong thơ Mai Văn Phấn như một con người
có cá tính riêng biệt. Người ta thường biết hoa cúc là đề tài của nhiều bức họa
vàkhông ít nhạc phẩm, để rồi cứ ngỡ rằng không gian của hoa cúc là chốn thơ ca,
văn nghệ. Nhưng không, hoa cúc trong thơ Mai Văn Phấn là hoa cúc về với thiên
nhiên “Chạy về cao rộng mùa thu” với “Heo may réo tìm khản giọng”. Không chỉ hòa
mình về với thiên nhiên, hoa cúc còn là một sinh thể tồn tại một cách đường
hoàng đĩnh đạc giữa thế giới đổi thay, giữa thế giới của cạm bẫy, tranh giành
và mê đắm mà nhà thơ chỉ ra là thế giới của “mơ mộng vững bền”, “ngọt ngào khôn
ngoan giăng lưới”, “dại khờ con cá cắn câu”, “con chuồn ngu ngơ dính bẫy”. Và
mặc cho người đời kẻ ngợi ca hay chê trách, hoa cúc vẫn là một thực thể tự
nhiên tàn nở theo quy luật của vũ trụ, tạo hóa:
Ngợi ca trở thành xa lạ
Nhạt phèo những chuyện đâu
đâu
Ta mải cao đàm khoát luận
Hoa tàn tới cả mùa sau
(Chuyện hoa cúc)
Không chỉ có hoa lá mà cỏ cây cũng là một phương
diện sinh thái được thể hiện trong thơ Mai Văn Phấn. Thơ Mai Văn Phấn xuất hiện
nhiều chi tiết về lá cây. Lá cây là biểu hiện của thời gian đi
qua, các mùa luân chuyển:
Cô đơn tràn bãi trưa hanh
Mùa đi rung cây lá đổ
(Màu xanh)
Lá cây là nhân chứng của tình đôi lứa nồng nàn, cuống quýt:
Đêm đầu mùa
Anh cuống quýt hôn em qua
kẽ lá
(Màu xanh)
Những chiếc lá đôi khi là một ẩn dụ về đời người trong sự trường tồn của
thiên nhiên:
Khi mỗi chúng
ta là chiếc lá
Thì rừng hoang bỗng hóa
nhà mình
(Màu xanh)
Ngoài lá cây còn có những hình ảnh về những bãi cỏ, bãi cỏ xanh mọc lên
thấm thoát gắn với sự sống qua từng bước chân của con người:
Bao lối cỏ cứ xanh vội vội
Thấm lên bàn chân ai qua
(Màu xanh)
Cỏ cây dường như là một biểu hiện của sự sinh sôi trong thơ Mai Văn Phấn:
Nơi đầu nguồn
đã thay một không gian và thế hệ cỏ non đang ran ran trên đất [15]
Sự sinh sôi mà biểu tượng cỏ cây
trong thơ Mai Văn Phấn thể hiện không phải đơn lẻ mà luôn có sự sóng đôi:
Mặc lũ vịt chạy lên triền
đê đẻ trứng
Bên mầm cây nâng trời đất
chui lên
(Anh đã rơi)
Cây cỏ xanh tươi là một bộ phận của tự nhiên
hòa vào những quy luật của tạo hóa:
Hạt mưa vỡ từ giấc mơ mùa
hạ
Ngọn cỏ ngước lên đón từng
giọt ngập ngừng
Xác lá mủn, hồn chạy nhanh
lên ngọn
Cao xanh về trong hốc mắt
tan sương
(Nhịp thu về)
Mai Văn Phấn có lẽ đã nhận ra mối tương quan
chặt chẽ giữa con người và tự nhiên, từ đó thể hiện qua những hình ảnh về cây cỏ, hoa lá trong thơ mình. Hình ảnh cây
cỏ, hoa lá chiếm tỷ lệ khá cao
trong những tác phẩm của Mai Văn Phấn. Theo số liệu thống kê từ những bài thơ
mà Mai Văn Phấn viết, hình ảnh cỏ có
mặt đến 127 lần, những hình ảnh cây, hoa,
lá, quả, hạt, củ... gọi chung là hoa
cỏ, cây lá xuất hiện tới 629 lần. Điều đó chứng tỏ việc sử dụng hình ảnh cây cỏ, hoa lá trong sáng tác là đặc
điểm khá cơ bản của thơ ca mang cảm quan sinh thái của Mai Văn Phấn.
Nhà thơ Mai Văn Phấn đã đưa những hình ảnh,
màu sắc, hương vị của cỏ cây, hoa lá vào tập thơ Gọi xanh. Trên nền tảng tình yêu thiên nhiên tha thiết, cảm quan về
cây cỏ, hoa lá của Mai Văn Phấn rất dễ nảy sinh và tạo nên cảm hứng:
Cây mọc vô tình bên mép đá
Tán xanh như múa gốc như
quỳ
(Cây trên đảo)
Mai Văn Phấn là người dễ đồng điệu với thiên
nhiên. Bắt gặp cảnh sắc thiên nhiên đẹp đẽ hay gặp gỡ những miền đất thắng cảnh
danh lam đều có thể khơi gợi nguồn thi hứng của nhà thơ dù chỉ là những biểu hiện
của cây lá:
Cây lá ở Nghi Tàm
Thon những bàn tay Phật
Ta nhìn vào sương tan
Thấy lòng mình trong vắt.
Tiếng thời gian khoan nhặt
Bên thềm rêu gọi hè
Không gian như phủ chúa
Hoa cười vang cung mê.
Ai đang dẫn ta về
Thành Thăng Long mây khói
Nền xưa và dấu xe...
(Nghi Tàm)
Nhà thơ Mai Văn Phấn là người Việt Nam đầu
tiên viết về cỏ với những khám phá cực
kỳ mới lạ. Trong thơ ông, hình ảnh của cỏ
trở nên là hình ảnh siêu thực:
Thôi đừng dỗ cỏ
lên trời
Khi tan mộng mị
biết ngồi với ai
Dấu chân đừng
hóa chông gai
Nép vào bóng xế
dũa mài hoàng hôn
Ta về đổ bóng
xuống vườn
Cho xanh tươi
lại từng cơn úa vàng
Ghé môi vào miệng
thời gian
Cho hơi thở mọc
vô vàn cỏ non
(Tản mạn về cỏ)
Cỏ là hình ảnh chính trong những
câu thơ trên đây, được nhân cách hóa, biểu
tượng hóa. Cỏ cũng như người “bị dỗ
lên trời”. Cỏ cũng như người đang “mộng mị” cùng với nhân vật bộc lộ tâm trạng.
Cỏ trở thành hình ảnh biểu trưng ở
hai câu thơ cuối với hai hình ảnh tương xứng “miệng thời gian” và “cỏ non” như
ngầm định về sức trẻ với những đam mê, khao khát. Và theo thống kê của PGS. TS.
Đào Duy Hiệp, trong thơ Mai Văn Phấn, số lượng cỏ non, xanh chiếm kỉ lục so với các kết hợp khác: cỏ mềm, vạt cỏ dài, sữa cỏ, cỏ đêm, cỏ dại,
cỏ hoang, cỏ gai, cỏ mịn, cỏ nát…
Kể từ lúc này trở đi, hình ảnh cỏ trong thơ Mai Văn Phấn được sử dụng
nhiều với mức độ sâu rộng và ẩn chứa nhiều thông điệp với những biến thể khác
nhau. Mai Văn Phấn cho rằng mọi thứ đều có linh hồn và cỏ cây, hoa lá cũng mang
một điều gì đó rất đỗi thiêng liêng. Cỏ cây, hoa lá cũng đều có linh hồn. Dù do
tâm trí con người tạo ra nhưng cái linh hồn của cỏ cây, hoa lá vẫn có ích cho
cuộc sống vì chúng làm cuộc sống đẹp đẽ, sinh động hơn. Trong thơ Mai Văn Phấn,
cỏ vô tri mà lại có hồn, nó luôn hiện diện cùng với những triết lý về con người
và cuộc đời:
Hoa tàn cây vẫn
còn đau
Hương thơm quyến luyến
trên đầu cỏ xanh
(Kinh cầu ban mai)
Cỏ cây là biểu tượng của sức sống mãnh liệt, sức sinh sôi lớn lao:
Gần em cho mưa bay
cỏ dưới chân đang hàn gắn
thế giới
(Những bông hoa mùa thu)
Với 127 lần xuất hiện, cỏ hiện lên như một ám ảnh trong tâm thức sáng tạo của thi nhân. Trong
thơ tuyển của Mai Văn Phấn có ba bài bài mà nhan đề nhắc đến cỏ: Tản mạn về cỏ, Khai bút cùng cỏ và Hình Đám Cỏ. Nhất là, trong trường ca Người cùng thời và hai bài thơ dài Những bông hoa mùa thu và Hình Đám Cỏ, tần số từ cỏ xuất hiện đã
đạt đến mức kỷ lục (riêng ở Hình Đám Cỏ, từ cỏ xuất hiện tới 21 lần).
Vẫn mang tính chất mộng mị của cỏ ở giai đoạn
đầu, tuy nhiên ở giai đoạn thứ hai, hình ảnh cỏ đã ít nhiều mang hơi hướng của công nghệ hiện đại:
Ta nhận biết mình trong tiếng
chim mê ngủ
Ngọn cỏ mơ màng ngậm những
vì sao
Ngọn gió sớm đặt tay lên
bàn phím
Gương mặt ai vào vùng nhớ
hôm nào
(Người cùng thời – Chương I)
Những hình ảnh đậm đặc chất siêu thực như “tiếng
chim mê ngủ”, ngọn cỏ “ngậm những vì sao”, ngọn gió “đặt tay lên bàn phím” và “Gương
mặt ai vào vùng nhớ hôm nào” đã cho thấy, hình ảnh cỏ trong thơ Mai Văn Phấn đã hướng tới một nội hàm khác trước.
Bước sang giai đoạn thứ ba, hình ảnh cỏ trong thơ Mai Văn Phấn xuất hiện với
một sắc thái khác:
Mưa cơ thể em sáng láng
Phởn phơ vũ điệu cỏ cây
(Hình Đám Cỏ - Nhịp V)
Hay:
Mặt cỏ phun nhuệ khí trùm
lấp
Phấn khích giờ tạo thiên lập
địa
Mùa mới đợi chờ cỏ xanh cắt
sát gốc
Những móng vuốt tì chân cỏ
bật căng
Cỏ non kinh động
Càng chồi lên mở lại những
chân trời
(Hình Đám Cỏ - Nhịp IX)
Hoặc:
Bên nhau cỏ mọc
Cỏ diễn tiếp giấc mơ của
đất
Lưng thấm cỏ, chân tay thấm
cỏ
Không cần sấm chớp, tụ mây
ta mưa vào nhau cơn mưa cỏ
xanh
nắng lại trải vàng mặt đất
Mưa cỏ xanh
dâng mắt ta ngập tận đỉnh cây
Ta đan vào nhau nghẹt thở… ngô nghê... ú ớ…
(Những bông hoa mùa thu)
Có lẽ nào, Mai Văn Phấn muốn tô đậm giá trị
phồn thực mà hình ảnh cây cỏ mang lại. Hình ảnh cỏ ở đây vẫn mang hơi hướng mộng mị ở hai giai đoạn trước, nhưng đẫm
dục tính nhân sinh qua các bộ phận cơ thể người như lưng, chân tay. Và có lẽ,
tinh thần này xuất phát từ biểu tượng của văn hóa thế giới: cỏ là biểu tượng của tất cả những gì chữa khỏi bệnh, tái lập sự sống, trả lại sức khỏe, sự cường
tráng và khả năng sinh sản.
Như vậy, biểu tượng cỏ trong thơ Mai Văn Phấn có tác dụng làm chất xúc tác cho sáng tạo
nghệ thuật và là biểu tượng về tính dục, sự sinh sản, sức khỏe, mang theo triết
lí về con người, cuộc đời, cội rễ.
Khẳng định sự thành công của Mai Văn Phấn khi
viết về cỏ, nhà văn Nguyễn Tham Thiện
Kế cho rằng ông là nhà thơ đạt thành công nổi trội khi viết về hình tượng ngọn cỏ, ông đã tạo ra thách thức cho những
người viết về hình ảnh cỏ sau ông. Nếu
thi ca trung đại có thi hào Nguyễn Du viết nên những câu thơ bất hủ về cỏ mãi mãi vẫn đủ sức rung động lòng người
thì thơ ca hiện đại ghi một cái tên Mai Văn Phấn.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Trong Chương 2, chúng tôi tìm hiểu và phân
tích hai nội dung cơ bản là làm rõ khái niệm “biểu tượng” và tìm ra những biểu
tượng sinh thái cơ bản trong thơ Mai Văn Phấn. Đó là hai hệ biểu tượng cơ bản:
hệ biểu tượng về bầu trời và hệ biểu tượng về mặt đất. Trong hệ biểu tượng
về bầu trời nổi lên hai biểu tượng rõ nhất là ánh sáng với những bình minh, ban mai, mặt trời, tia nắng, ánh trăng, ngọn lửa,… và giọt sương, ngọn gió, chim muông. Hệ biểu
tượng về đất có những biểu tượng
tiêu biểu là đất đai với những đồng vị là cánh
đồng, khu vườn, mùa vụ, gieo trồng,… nước, cỏ. Các hệ biểu tượng này đã làm
hiện lên một thế giới tự nhiên đa dạng, phong phú. Đó vừa là một thế giới phồn
sinh, giàu có, ổn định, hài hòa, tươi đẹp song cũng hàm chứa các nguy cơ bị phá
hủy, bị phai tàn bởi sự ích kỉ của con người.
Chương 3
MỐI QUAN HỆ HÀI HÒA GIỮA CON NGƯỜI VÀ TỰ
NHIÊN:
SỰ THỨC TỈNH CỦA ĐẠO ĐỨC SINH THÁI
3.1. Sự hài hòa giữa con người
và tự nhiên
3.1.1. Người mẹ: cội nguồn thế giới
Mai Văn Phấn hay nói về Mẫu. Đạo Mẫu là một
tín ngưỡng mang bản sắc văn hóa Việt Nam rất đậm đà. Những giá trị nhân văn, nhân
đạo mà tín ngưỡng thờ mẫu để lại là nét đẹp văn hóa tâm linh của dân tộc Việt
Nam. Tín ngưỡng thờ Mẫu ra đời trong nền văn minh nông nghiệp lúa nước, ảnh hưởng
của chế độ mẫu hệ và quan trọng nhất là niềm yêu thương, trân trọng biết ơn đối
với những người sinh thành dưỡng dục, có công với cuộc đời mỗi người và sự nghiệp
chung của các dân tộc. Hình ảnh người mẹ
trong tín ngưỡng dân gian và trong tâm thức người Việt là hình ảnh của người chở
che, đùm bọc, nuôi dưỡng và dạy dỗ cho mọi người. Điều đó lý giải vì sao cả khi
vui lẫn khi buồn, khi thành công hay thất bại người ta đều muốn trở về để nhận
được sự bao dung, vỗ về của người mẹ.
Dường như Mai Văn Phấn có một niềm tin vào đạo
Mẫu rất mãnh liệt, vì thế thơ ông có nhiều dấu ấn của đạo Mẫu và viết về người mẹ rất hay. Mai Văn Phấn dành cả một
bài thơ dài lấy tên là Cửa Mẫu. Hình
ảnh mẹ, hình ảnh mẫu trong thơ ông cũng xuất hiện rất nhiều. Đó là những hình ảnh bao bọc, chở che, đại diện cho sự sinh sôi, nảy nở, trù phú và hết sức nên
thơ. Hình ảnh người mẹ không chỉ vĩ
đại trong tâm trí người Việt mà còn vĩ đại trong tâm thức của những dân tộc, con người biết trân trọng yêu quý cái đẹp.
Nhà thơ M. Gorki từng thốt lên rằng:
Đời thiếu mẹ hiền, không
phụ nữ
Anh hùng, thi sĩ hỏi còn
ai
Theo thống kê của chúng tôi, trong Thơ tuyển Mai Văn Phấn cùng tiểu luận và trả lời phỏng vấn, hình tượng mẫu đã xuất hiện tới 75 lần, trong đó, từ mẹ
(mẫu) có 35 lần và các đồng vị tương
ứng của mẹ như đàn bà, bà, chị, thiếu phụ,
thiếu nữ, cung phi, vũ nữ, a hoàn... có tới 30 lần.
Trong bài Cửa
Mẫu, hình ảnh người con rõ ràng
là một ẩn dụ cho đời sống, sự tồn tại của vạn vật, trăm điều trong cuộc chiếu
đấu của đấu trường tiến hóa. Hình tượng Mẫu
là đấng toàn năng, hoàn bị, đã sinh thành ra con người, che chở, bảo vệ cho những
đứa con và giúp chúng sinh tồn, thích nghi, tranh đấu bảo vệ sự sống của chính
mình:
Con đuổi theo con mồi nhỏ
Tung mình lên mặt sóng rồi
mất hướng
Nước rút
Trong giấc mơ gần sáng
Xương cốt con đau
Đuôi và vây lưng tê cứng
Có bàn tay luồn những sợi
dây
Kéo con lê lết
Họ dừng lại trú mưa
Phóng thích con
Gần chân sóng…
(Cửa Mẫu)
Người ta tin rằng, trong bất cứ thời điểm
nào, ở bất cứ đâu, với mọi hoàn cảnh của cuộc sống, mẫu với nhiều hóa thân khác nhau luôn luôn theo sát, nâng niu, bảo
vệ và làm nhiệm vụ dẫn đường cho con vượt qua bao khó khăn, thử thách, bao sóng
to gió lớn của cuộc đời:
Ngọn cây vươn mỏ con chim
Đang cúi xuống mớm vào miệng
con từng hớp gió
[...]
Da thịt con yêu trải sâu đêm tối
Dựng tầng mây mưa nguồn
[...]
Con lặng
lẽ đi qua vầng mặt trời đáy nước
Nhìn hướng bầu trời mở đôi cánh
(Cửa Mẫu)
Hình ảnh con
trong những câu thơ trên vừa có tính cá thể đơn nhất vừa mang tính quảng đại quần
thể, đó là biểu hiện của sức mạnh hiên ngang, mạnh mẽ trong quá trình khám phá
bản thân, thâm nhập vào thế giới và khát vọng vươn tới tương lai. Quá trình như
vậy không thể có được sự thuận lợi ngay từ đầu mà còn tiềm ẩn những hiểm nguy,
vất vả. Hình ảnh mẫu vụt hiện như
nhân vật nâng đỡ, hỗ trợ, bảo vệ vô hình trong mọi trường hợp cho nhân vật con.
Mai Văn Phấn coi mẫu là thần tượng. Trong thơ ông, mẫu đại diện cho sự sinh sôi nảy nở, trù phú; mẫu còn là đấng toàn năng với các chức năng sinh thành, che chở, bảo
vệ, hướng dẫn và cùng con vượt qua
bao sóng gió của cuộc đời.
Nhiều khi nhà thơ không nói trực tiếp về người mẹ nhưng qua câu chuyện về một bộ
đồ pha lê rơi vỡ, nhà thơ nói lên những triết lý về người mẹ tự nhiên. Hạt bụi
biểu trưng cho thiên nhiên mà thiên nhiên là mẹ tạo hóa sinh sôi ra những gì được
cho là đáng quý và cao sang nhất như pha lê:
Người chủ lỡ tay
Hay số phận...
Pha lê quay cuồng
Vụn nát.
Bàng hoàng
Nhận ra
Bụi là mẹ ở nơi nơi.
(Bụi và pha lê)
Người mẹ thiên nhiên hiện hữu hóa trong hình
ảnh “trứng chim nằm trong lòng mẹ”, hay “Quả trứng ấp trong đôi cánh của mẹ”.
Người mẹ thiên nhiên hiện hữu trong mối quan hệ giữa rễ cây to và rễ cây nhỏ,
chùm rễ cây mẹ vững chãi ông ấp lấy chùm rễ cây con. Đất mẹ thiên nhiên ấm áp ôm
lấy thân thể của người con của tự nhiên vừa trải qua hình trình của cuộc đời
nay trở về với đất:
Đất mẹ ấm áp
Máu xương
Nước mắt thấm lưng
Những linh hồn chen chúc
(Mở)
Loài sinh vật cũng có tình mẫu tử, con nghé lạc
mẹ đi từ sáng tinh mơ khi có hơi nước bai mai phủ lên các sợi lông tơ, để đi
tìm mẹ khắc khoải “gõ móng trên mặt đất”. Hình ảnh lòng mẹ cũng là thước đo để so sánh với tạo vật thiên nhiên. Người
mẹ thiên nhiên hiện hữu trong hình ảnh con vượn mẹ tự đẻ con và tự đỡ con trong
giờ sinh nở mà hình ảnh “Tay kia đu trên thăm thẳm vực sâu” gợi cho ta cảm tưởng
về sự nguy hiểm của cuộc sinh nở của tạo hóa. Chú bê non dúi đầu vào lòng mẹ để
tìm tòi sự âu yếm và nguồn sống.
Người mẹ trong thơ Mai Văn Phấn có khi là người mẹ đi đãi cát tìm vàng, mơ mộng cho sự sang giàu của con
cái mai sau dù cho hiện thời việc đãi cát tìm vàng ấy khó khăn và đầy rẫy những
cảnh đau khổ, những toan tính tham lam. Sự tìm kiếm phú quý sang giàu làm phai
nhạt đi lời thề đôi lứa, vùi chôn quê hương xứ sở vào miền quên lãng. Người mẹ đã khóc ròng vì cảnh tìm vàng:
Vàng đâu! Mẹ khóc với trời
Mưa giăng giăng nước mắt
rơi thành vàng
(Khúc hát ru của người mẹ đi tìm
vàng)
Người mẹ vất vả nhọc nhằn là hình tượng
thơ thường thấy để phản ánh nỗi cực khổ của đời người và một thời kỳ
dài đã qua. Mai Văn Phấn dùng hình ảnh “lưng cáy màu áo mẹ” như “đã nhuộm từ
thuở nào” để minh họa cho điều đó. Rõ ràng khác với phong cách diễn tả truyền
thống, phong cách diễn đạt của Mai Văn Phấn thật góc cạnh và chính sự chân thật
góc cạnh ấy lại càng làm ám ảnh người đọc về những hình tượng nhà thơ xây dựng.
Tuy vậy, thơ Mai Văn Phấn có những câu thơ gợi nhớ cho chúng ta phong vị ca dao
của những làng quê xưa về người mẹ hiền:
Em ơi từ độ vắng nhà
Cá rô kho mặn ăn ba bốn
ngày
Màn lưa thưa gió heo may
Chắc là mẹ ngủ đêm nay chập
chờn
(Em gái lấy chồng)
Hình ảnh mẹ “tóc bạc phơ” tay cầm chiếc quạt
đã in bóng trong thơ văn truyền thống nay lại in bóng trong thơ văn Mai Văn Phấn.
Hình ảnh của người mẹ trong chiến tranh đã lùi xa nhưng rõ ràng vẫn còn vang
bóng trong đời sống:
Tấm lưới nghìn năm dằng dặc
miệt mài
Ai đã kéo sau mỗi cơn binh
lửa
Suốt đời mẹ
đan những sợi ban mai âm thầm bên khung cửa
Khi đón cha đêm đã nhạt cuối vườn
(Giấc mơ đi qua)
Trong bài thơ Cửa Mẫu, người mẹ thiên nhiên được phản ánh qua biểu tượng Mẫu. Người
mẹ thiên nhiên vỗ về nuôi nấng vạn vật bằng ánh trăng, tiếng chim, tiếng thú,
mây mưa, suối nguồn.
Mẫu nâng niu con ánh trăng
Tiếng chuyền cành, tiếng
hú
Da thịt con yêu trải sâu
đêm tối
Dựng tầng
mây mưa nguồn
(Cửa Mẫu)
Người mẹ trong bài thơ Rời tay để bạn đi trước
tiên là người mẹ sinh thành dưỡng dục, là người mẹ đã ngày
đêm chăm bẵm nuôi nấng mỗi người, sau đó là biểu trưng cho cõi khuất, cho thiên
nhiên nguồn cội. Khi nhà thơ Dương Kiều Minh mất, Mai Văn Phấn đã khóc nhà thơ
bằng bài thơ này:
Tìm khắp cánh đồng không
thấy
trên lớp lá thu còn một
chiếc giày
Chắc giờ này bạn đã gặp mẹ
(Rời tay để bạn đi)
Hình ảnh người mẹ hiện lên
cùng người cha trong nỗi cảm ơn của người con:
Đóng chiếc cọc sâu cột
cánh diều
Tạ ơn cha mẹ
(Tỉnh dậy trong đêm mưa)
Hình ảnh mẫu
hay hình ảnh mẹ là hình ảnh mà Mai
Văn Phấn đã cố công gây dựng trong nhiều sáng tác của ông. Đó là đấng toàn
năng, đấng cứu rỗi và phù hộ độ trì cho những người con, mang ý nghĩa về sự
sinh sôi, nảy nở của vạn vật. Vì vậy, đó là khát vọng vô biên của con người
trong đời sống vật chất và tâm hồn. Đó là sự chở che vĩ đại cho linh hồn con người.
Hình ảnh người mẹ chắc chắn được lấy ra từ đời sống thực, đời sống của loài người. Người mẹ là người sinh thành, dưỡng dục
và hy sinh vì con, là người mẹ đồng cam cộng khổ, là người mẹ theo sát người
con trọn một đời. Mai Văn Phấn viết về mẹ vô cùng cảm động, sự cảm động không
chỉ dâng lên ở con tim mà còn dâng lên cả trong khối óc.
3.1.2. Người tình: đắm say, rạo rực và tình tứ
Người tình là nhân vật rất hấp dẫn trong thơ Mai Văn Phấn. Theo thống kê số liệu, trong Thơ tuyển Mai Văn Phấn cùng tiểu luận và trả lời phỏng vấn, hình ảnh người tình được nhà
thơ nhắc đến 367 lần với hai tên gọi: em (256
lần) và vợ (11 lần). Dù xưng hô là anh và em nhưng không hẳn Mai Văn Phấn muốn nói đến một tình yêu. Vì vậy
hình ảnh người tình trong thơ Mai Văn
Phấn phải là hình ảnh của một cô gái đang yêu và được yêu. Tình yêu đôi lứa là
cảm hứng vô tận trong sáng tác thơ ca. Tình yêu là túi chứa của những cảm xúc của
con người cả tươi đẹp lẫn tàn úa, cả hạnh phúc lẫn khổ đau. Mai Văn Phấn là nhà
thơ mang sẵn tình cảm yêu đương, thơ ông mang vẻ đẹp của tình yêu non xanh dù
ông đã trải qua thời trai trẻ. Nhưng thơ ca là đời sống tâm hồn, không phải đời
sống thể chất. Trong thơ ông, hình ảnh người
tình xuất hiện với tư cách của kẻ đang yêu vô cùng đắm say, rạo rực, tình tứ:
Chúng mình hôn
nhau trong hành lang hẹp
trên cỏ xanh,
trong những góc tối
trên tháp
chuông, bên gốc cây cổ thụ
Con sâu đo em đu lên người
anh
thì thầm gặm hết những
xanh non
(Gió thổi)
Tình yêu được cho rằng có sự quyến rũ rất
riêng vừa tự động nhưng cũng vừa bắt buộc, nó như một quyền lực mềm trong mối
quan hệ giữa con người. Thơ Mai Văn Phấn khai thác hình ảnh em trong cuộc yêu muốn trở về chốn yên
lành nơi nhà thơ sẽ dựa vào đấy sau những trải nghiệm vất vả, khó nhọc của cuộc
đời. Hình ảnh em có thể là sứ giả của
hòa bình, của sức mạnh cảm hóa của tình yêu, sức mạnh gắn kết nhân loại:
Luôn tin có em trong miệng
anh
Nơi không chiến tranh, dịch
hạch
Mũi tên bắn lén tẩm độc
Thị phi, cạm bẫy, lọc lừa
Lối em đi không còn gai
nhọn
Bão
tràn qua anh dựng tường ngăn
Bình yên trong miệng anh
Em thúc nhẹ bờ vai
Vòm ngực, ngón chân vào má
Huyên thuyên và hát thầm
Hồn nhiên cho
lưỡi và răng anh chạm vào cơ thể
Anh là con cá
miệng dàn dụa trăng
Rời bỏ bầy đàn quẫy vào biển
động
(Ngậm em trong miệng)
Trong tình yêu ấy, rõ ràng Mai Văn Phấn đã
tôn thờ người yêu như những thiên thần và coi bản thân mình đang được hưởng
phép màu và ân đức của người yêu ấy:
Từng giọt mát lành thấm
nhuần trong đất
Tươi từ môi anh đến gót
chân em
Anh ngỡ mình được phép
lành thánh thể
Đêm vừa qua hay đã mấy
nghìn năm
(Ngậm em trong miệng)
Nằm trong cảm thức mẫu, hình tượng người tình còn được Mai Văn Phấn tôn
vinh như thiên thần trong trạng thái phồn sinh. Với ông, bất cứ vật gì trong trạng
thái mang thai, sinh nở đều đẹp, đều thiêng liêng: “Chiều nay em cho con bú.
Ngoài kia từng chân kiến đang đi, từng cánh ong vẫn còn đang vỗ. Nơi anh về trú
ngụ là ô trời xanh trong mắt em cười. /.../ Căn phòng mình chẳng còn những bức
tường bao quanh và không gian thành thời gian thánh thiện, khi anh mải mê nhìn
vầng ngực em dâng đầy như biển, cứ thu mình tìm vào miệng con be bé xinh
xinh...” (Em cho con bú).
Và:
Khẽ nhắm mắt, khẽ ngậm vào
tóc em
Đang chết đi và đang sinh
sản
Dù có lả
đi thành âm u bóng tối
Lại thấy huy hoàng chạm những
môi hôn
(Anh đã rơi)
Tính mẫu và tính nữ của hình ảnh người tình được
nhà thơ kết hợp một cách hài hòa để tạo nên hình tượng người tình đẹp rạng ngời.
Hình ảnh ấy có thể có sức ám ảnh rất lớn trong những sáng tác nghệ thuật. Có lẽ,
trong đời sống thường nhật, nhà thơ cũng muốn dựa nương vào sự che chở của tình
yêu mà người tình mang lại:
Là con kiến nhỏ trong thế
giới em
Có thể bị nghiền nát dưới
tảng đá vỡ
Dưới gót giày
Mũi khoan, lưỡi cuốc
Độ nóng que hàn
Tiếng rít từng bánh sắt
Bị thiêu rụi trong đám
cháy rừng
Thành tro bụi giữa tầm sét
đánh
Biết thế…
Vì biết thế
Nên đỉnh đồi
Hay tận hang sâu
Anh hoá thân thành muôn
ngàn loài kiến
Kiêu hãnh bò đi trên thân
thể em
(Hình đám cỏ - Nhịp IV)
Trong chủ đề tình yêu, chủ đề mà người ta
nghĩ rằng khó tìm được một con đường mới để thể hiện lòng mình. Trong khi đó,
Mai Văn Phấn vẫn tìm được sự cách tân riêng, ông viết về dục tính trong tình
yêu nhưng dục tính rất nhân văn, rất khéo léo chứ không lõa lồ, thô bỉ hay phản
cảm:
Đu cành
cao
Chạm ngực em trái chín
Thân bỏng rát
Anh sấm rền gót chân
Trái chín bay chậm buông
thõng
hút lên sạch bụi rì rào
Anh nhai lá khô ngấu nghiến
lưng tròn khép lại vòng
tay
(Hát từ đất)
Vì vậy tình yêu trong thơ Mai Văn Phấn đầy say đắm nhưng cũng đầy ý tứ:
Tôi thì nồng nàn như đất
Để em linh ẩn chùa chiền
(Thoáng thu)
Tình yêu biến những người yêu trở nên hòa quyện tâm tư tình cảm, giao
hòa tâm trạng với nhau dù cho xa cách:
Em lần theo bóng mây trôi
Thấm qua sóng lá vô hồi
Đằm vào anh tiếng chim đôi
bất ngờ
Làm vang lên những dây tơ
vừa chùng
(Em xa)
Vẻ đẹp mái tóc người yêu cũng đủ để làm cho tâm hồn người tình xao động
như cơn lũ vỗ vào con đê mong manh:
Tóc em
Tràn
Cơn lũ
Vỗ
Hồn anh
Con đê
Mong manh...!
(Không đề 2)
Nhà thơ đôi khi ví tình yêu của mình đối với cô gái như tình yêu của hoa
cúc chờ sự ban phát của ánh nắng ban mai:
Em nhòa nắng mới thơ ngây
Ấm ran khắp tầng vũ trụ
Anh thành bông cúc thẫn thờ
Cuối mùa vàng lên vội vã
(Cuối xuân đầu hè)
Nhà thơ có lúc ví người tình của mình như một tòa tháp Chàm, vừa thiêng
liêng, vừa thân thuộc, vừa cổ kính vừa ma mị vừa hấp dẫn bởi sự thâm trầm:
Có một Tháp Chàm khác nữa
Là em nghiêng búp tay thon
Dắt anh từ hoa văn rêu phủ
Qua nghìn năm
vang bóng những linh hồn
(Ảo
ảnh tháp Chàm)
Cũng trong cảm hứng về một tình yêu ý nhị
thanh tao, nhà thơ nhiều lần mường tượng người yêu của mình ban phát tình yêu
như một sự rửa tội nhưng là một sự rửa tội đầy gợi cảm:
Chạm bờ ánh sáng
Anh quỳ xuống
Em hiện thân trong chiếc
áo thiên thần
Lấy một ít nước gọi lên
máu và sữa cỏ
Em dịu dàng rửa tội cho
anh
(Nghi lễ cuối cùng)
Tình yêu ấy rồi sẽ dẫn đôi lứa đến một mái
nhà của hạnh phúc hôn nhân, hạnh phúc gia đình. Mái nhà ấy là nơi chàng trai sẽ
trở về trong niềm hân hoan, sung sướng sau những giờ lao động vất vả, nơi ấy có
người vợ và các con đầy yêu dấu của anh ta:
Mặt biển cũng
vừa yên lặng, kéo mẻ lưới đầu tiên có bóng ngôi nhà mình, anh thấy yên tâm về
em cùng với các con
(Ký sự
mùa thu)
Tình yêu của đôi trai gái cũng có lúc rạo rực,
say đắm. Chàng trai mơ đến sự ái ân đôi lứa như một sự chăm bón vun trồng. Đó
là một tình yêu đầy tính phồn thực:
Anh mơ được em gieo trồng
trên ngực
Bàn tay dịu dàng vun vào
da thịt
Hôn lên tai anh lời chăm
bón thì thào
Anh cựa mình nồng nàn tơi
xốp
(Bài ca buổi sớm)
Những hình ảnh biểu trưng cho một tình yêu nồng
nàn say đắm có thể kể đến như:
Từng giọt mát lành thấm
nhuần trong đất
Tươi từ môi anh đến gót
chân em
(Bài ca buổi sớm)
Nỗi cô đơn của chàng trai trong tình đôi lứa
cũng không phải là nỗi cô đơn trống trải nhẹ nhàng mà nỗi cô đơn ồn ào, náo động:
Em đi cùng đám
mây bông
Mình anh gió
hú dọc sông Ngân Hà
(Một
mình)
Có thể nói, hình ảnh người tình trong thơ Mai Văn Phấn có sức ám ảnh lớn và dường như,
nó chi phối cả hoạt động sáng tạo của thi nhân. Không chỉ dừng lại ở sự ban
phát hạnh phúc trần thế trong tình yêu lứa đôi, hình ảnh em còn hiện hữu như một chốn bình yên, cứu rỗi
anh khỏi mọi điên đảo của cuộc đời; là hiện thân của phép nhiệm màu có tác dụng
ân xá mọi tội lỗi cho anh. Thậm chí, em
còn được tôn vinh như thiên thần trong trạng thái phồn sinh đầy thiêng liêng.
Điều đặc biệt ở Mai Văn Phấn khi viết về hình ảnh này là người tình trong thơ ông không hiện lên như một thể tính gợi dục mà thánh thiện, tinh khiết nhưng cũng không kém phần
nóng bỏng, hấp dẫn như thiên nhiên non tơ của sự sống. Vẻ đẹp của em trong mối quan hệ với anh, chủ thể trữ tình và trong cảm nhận
của anh luôn đồng hiện giữa thiên
nhiên. Em là thiên nhiên hoàn mĩ,
cũng là thiên nhiên phì nhiêu, căng đầy sức sống.
3.1.3. Anh trong miên man cảm xúc bất tận
Nhân vật anh
là chủ thể trữ tình trong thơ Mai Văn Phấn. Anh
có khi được nhà thơ xưng gọi là tôi, hắn,…
Cũng như người mẹ, người tình, nhân vật anh luôn xuất hiện trong mối quan hệ hài
hòa, giao hòa với thiên nhiên. Dù là khi biểu đạt xúc cảm, hay khi triết lí,
suy tư, chiêm nghiệm, nhà thơ luôn để cho những dòng xúc cảm ấy chảy giữa những
hình ảnh thiên nhiên mang nghĩa.
Phiêu du trong giấc ngủ, qua sự phiêu du ấy
chiêm nghiệm về thiên nhiên, kỷ niệm ấu thơ và về nhân sinh. Chìm trong giấc ngủ,
nhà thơ thấy mình thoát xác hòa mình vào thiên nhiên. Vẫn là thiên nhiên đấy,
nhưng cái gió, hạt nắng và bầu trời như đã được thổi hồn vào sự sống:
Gió vẫn ru xanh mướt ở
trên đầu
Trời rót xuống từng cơn
mưa đằm thắm
Hồn tôi lung linh hạt
nắng
Rơi xuống đồng xanh không
cùng
(Hồn nhiên)
Nhà thơ cũng chiêm nghiệm cuộc sống nhân sinh sau một giấc ngủ sâu, sau
một sự phiêu lãng của tâm hồn trong mộng mị:
Và rạng
đông!
Từng giọt rạng đông!
Tôi lại nhập hồn về với
xác
Chẳng phải
tôi, cũng không là người khác
Để hồn nhiên cất
tiếng khóc lọt lòng
(Hồn nhiên)
Nhiều lúc tác giả chợp mắt mười lăm phút mà
như chìm vào mộng mị như trải qua mấy mươi năm để thấy được sự mệt mỏi của cuộc
đời và giao thao của hai sự mơ thực:
Chợp mắt mười lăm phút
Mà mơ dằng dặc mấy mươi
năm
Tỉnh mộng
Mộng còn
Vật vã...
(Mơ thực)
Nhiều lúc tác giả muốn lội ngược dòng thời
gian tìm lại chính mình thuở xa xưa trở về hiện tại để thương lấy chính bản
thân hiện thời:
Gọi tìm tôi
thuở dại khờ
Về thương tôi của bây giờ
tinh không
(Không đề I)
Nhân vật anh
là con người của sự chủ động hòa mình vào thiên nhiên để tâm hồn cảm nhận được
sự úa vàng của lá xanh, sự lạnh giá của hạt sương rơi, của sự ngân vang của khoảng
không xốn xang, của sự nảy nở sự sống trong những hạt phù sa.
Nhân vật anh
dường như là người đã chứng kiến hoặc lắng nghe hoặc đã trải qua câu chuyện của
người đi người ở trong chiến tranh, vẫn còn nhớ tới những dư ba của cuộc chiến
trong cuộc sống kim tiền hàng ngày:
Đồng tiền
lạnh ngắt
Buốt tận mồ sâu
Đen bạc lừa nhau
Đốt lên tàn bạo
Giật mình hư ảo
Ngỡ còn chiến tranh
Họa bất thình lình
Từ nhà hàng xóm
(Người đi người ở)
Nhân vật tôi
hóa thân vào hòn đá tưởng chừng vô tri vô giác để nói lên vai trò của nghệ thuật
hay chính xác là sự phong phú của đời sống tâm hồn những thứ đó chính là nguồn
cội của sự nhận ra cái hay cái đẹp của cuộc sống:
Khi trong tôi
Không còn vang tiếng hát
Thì cánh chim chỉ là chiếc
lá khô thôi
Sóng táp lên cát vàng gỉ sắt
Hòn Vọng phu cũng tan ra
thành vôi!
(Lời của đá)
Nhân vật anh
trong thơ Mai Văn Phấn có thể song hành với nhân vật người tình hoặc cũng có thể xuất
hiện một cách riêng lẻ. Đó là nhân vật biết
yêu thương và thể hiện tình yêu thương của mình, tình yêu của anh là tình yêu dâng hiến, tình yêu luôn
được dựng nên trong không gian của thiên nhiên với những cảnh sắc giàu tính biểu
tượng. Những quang cảnh của tình yêu như phụ họa vào tình yêu của đôi lứa. Nhân
vật anh vì vậy mà hiện lên trong đa
chiều những cảm xúc dạt dào, sôi nổi, nhưng cũng đầy hoang mang, bất định.
3.2. Sự thức tỉnh của đạo
đức sinh thái
3.2.1. Cái nhìn trân trọng môi trường tự nhiên
Thiên nhiên trong thơ Mai Văn Phấn là một
thiên nhiên phì nhiêu, sinh nở, tái sinh. Những bình diện sinh thái như đất
đai, nước, lửa, bầu trời, sinh vật nói chung và con người nói riêng chính là biểu
tượng cho sự phồn sinh trong thế giới thơ Mai Văn Phấn. Những hình ảnh quen thuộc
trong đời sống tự nhiên từ mùa màng, cây cỏ, cánh đồng, dòng sông, chồi non, hạt
mầm,...
đến đôi lứa yêu nhau chính là những sự thể hiện
về một thế giới đầy ắp sự sống mà Mai Văn Phấn hướng tới. Thiên nhiên căng tràn
sinh lực trong nhãn quan của nhà thơ. Và xét cho cùng nhãn quan ấy luôn hướng về
đời sống của nhân loại, đời sống của sự đa dạng, phong phú từ đời sống sinh hoạt
vật chất đến đời sống của tâm hồn.
Thơ Mai Văn Phấn là sự tái hiện một thế giới
đầy sức sống, đầy sức sinh sôi và nảy nở. Đó là hình ảnh bao quát nhất, hình ảnh
trái đất. Trái đất là nơi sinh nở, nuôi dưỡng, chở che cho nhân loại:
Trái đất - Căn nhà hộ sinh
Tiếng trẻ con
chào đời truyền trong không gian xanh những dòng mật mã...
(Màu
xanh)
Tán lá, con thuyền, dòng
xanh có thể là dòng sông là những biểu trưng cho sự trỗi dậy của sự sống:
Tán lá là ngôi nhà bình
yên
Phía sau nằm úp một con
thuyền
Lá rụng khi dòng xanh
tưởng cạn
Con thuyền phía ấy lật
mình lên.
(Chiếc lá)
Nhà nhơ mượn hình ảnh bông lau để nói về sự hồi quy của tạo hóa trong triết
lý ngũ hành:
Cây từ miền hoang dại
không tên
Những bông lau phất lên
ngọn lửa
Rồi luyện lại từ Kim-Mộc-Thủy-Hỏa-Thổ
Để ra đời những thế hệ mai
sau.
(Tạ ơn bông lau)
Mai Văn Phấn tìm ra sự sống ngay trong những
biểu tượng tưởng chừng khô cằn, héo úa. Mai Văn Phấn nhìn cây mọc hoang dại bên
mép đá của một hòn đảo, tưởng rằng loài cây hoang dại này cũng chỉ là một sức sống
yếu đối. Nhưng không, chiếc cây đó vẫn căng tràn sự sống, cho nên câu thơ cuối
của bài thơ vụt lên như một sức sống tiềm tàng mãnh liệt:
Cây mọc vô tình bên mép đá
Tán xanh như múa gốc như
quỳ
Tôi chợt ngỡ ngàng cây phá
thế
Nhựa tràn qua những thớ
vân vi
(Cây trên đảo)
Xu hướng vươn
lên biểu tượng cho sự trỗi dậy, biểu tượng cho sức sống là xu hướng thường
thấy trong những sự thể hiện hình tượng thơ của Mai Văn Phấn. Đám mây nóng phủ
lên căn phòng, hương thơm vươn lên từ miệng những bóng râm, bình minh lên chiếu
sáng, lối cỏ phủ lên bàn chân người qua, con chim bay vút lên không, sóng táp
lên cát vàng gỉ sắt, hương bay lên ngây ngất,... là những xu hướng trỗi dậy,
bao phủ, đầy sức sống của tạo vật trong thơ Mai Văn Phấn. Đọc thơ Mai Văn Phấn,
ta cũng thấy nhà thơ thường dùng hàng loạt những tính từ mạnh, chỉ trạng thái
mãn nhãn, đầy ắp xung lượng: căng tràn
nhựa mật, ứ căng dòng nhựa, chặt căng
mầm hạt, bạt ngày lá cây, lá mầm che
mặt đất sum suê, lá lên xanh thắm,... Bên cạnh đó là nghệ thuật sử dụng những động từ mạnh gợi
cho ta nhìn thấy một xu hướng của sự sinh nở, phát triển: nứt vỡ vỏ cây, chồi lên thành lộc biếc, rộ lên từng đợt lá non, vùi vào nhau hạt mầm bé nhỏ; đọt mầm bật dậy...
Thiên nhiên trong thơ Mai Văn Phấn rõ ràng là
một thiên nhiên khỏe khoắn, giàu sự sống. Ở đó những yếu tố của tự nhiên nếu
không ở trong trạng thái căng tràn sự sống thì ở trong trạng thái sinh sôi nảy
nở. Thậm chí những hình tượng tưởng chừng như đang chết đi nhưng thực chất
trong cảm quan của tác giả những hình tượng đó chỉ là đang tái sinh vòng đời của
chúng.
Bên cạnh đó, thế giới tự nhiên trong thơ Mai
Văn Phấn nổi bật lên còn là một thế giới tự nhiên an nhiên, bình yên, tĩnh
lặng. Thiên nhiên bình yên như ánh trăng, làn gió trong lời ru con ngủ:
Ngủ đi hỡi mảnh
trăng hiền
Cho long lanh
những giọt đêm nặng đầy
Vào đây gió
cũng thơ ngây
Ngọc trâm dịu mát hương
rây xuống hồn.
(Con ngủ)
Thiên nhiên và con người giao hòa với nhau.
Trong bài thơ Thu về nhà thơ cảm nhận
thu về không chỉ bằng ánh mắt, tai nghe mà cảm nhận bằng nhiều giác quan, thậm
chí cảm nhận bằng cả tâm thức. Sự giao mùa giữa mùa thu và mùa hè được nhà thơ
cảm nhận bằng thân thể:
Ngực chang chang mùa hè
Lưng đã ngầy ngậy gió
Cửa trời đang bỏ ngỏ
Cho thu về se se...
(Thu về)
Chân tay người thơ cũng giao hòa cùng trời
đất mùa thu để nhà thơ thấy mình như một giọt mật ngọt trong muôn giọt mật ngọt
của tự nhiên khác được thiên nhiên nhào nặn:
Tiếng thu gọi ong về
Để biến tôi thành mật
(Thu về)
Người ta cảm nhận cái gió heo may bằng da thịt
như Xuân Diệu, bằng mắt nhìn hoa cau rơi trên vại nước như Trần Đăng Khoa, còn
Mai Văn Phấn cảm nhận bằng cách nghe bằng đôi môi mềm:
Ai giăng khói nơi nơi
Môi mềm nghe gió quệt
Bao ngờ vực của người
Thu sẽ mang đi hết
(Thu về)
Và nhà thơ cảm thấy đất trời không gian mùa
thu như một cái ao sâu nước, nhúng mình trong ao thu sâu nước ấy, nhà thơ dường
như quên ngày quên tháng:
Trời như cái ao sâu
Thu ùa về như nước
Tôi làm sao biết được
Hôm nay là hôm nào
(Thu về)
Trong thế giới tự nhiên ôn hòa ấy, vạn vật có
thể giao hòa và tương tác với nhau tạo thành một chỉnh thể sinh động, đầy sức sống.
Ở đó, sinh vật nói chung và con người nói riêng có sự hài hòa, tương giao với
nhau. Mỗi cá thể của tự nhiên cũng như hòa vào xu thế chung cùng tạo nên một dàn
“đồng hưởng” của sự sống. Vì thế cho nên thơ Mai Văn Phấn thường có những cặp đôi
song hành. Đó nếu không phải là cặp đôi tình ái anh – em thì là cặp đôi của con
người và tạo vật. Trong một không gian mênh mông đa chiều nhà thơ khai thác hết
các chiều cạnh của tạo vật từ bề rộng, bề cao, chiều xa, bề sâu cho đến bề tiềm
ẩn của tư duy và những cảm thức hỗn độn.
Có thể nói, thiên nhiên, cuộc sống trong thơ
Mai Văn Phấn có xu thế chung là hướng tới sự ổn định, hài hòa tương giao với
nhau. Những yếu tố của tự nhiên tìm đến nhau hòa nhập vào
nhau tạo thành một bức tranh đa màu, đa sắc nét về thế giới bao la. Những sinh
vật cộng hưởng cùng nhau như tạo nên một bản giao hưởng sự sống. Con người và
thiên nhiên sóng đôi, hài hòa. Qua phông nền tự nhiên, con người bột phát những
tâm tư tình cảm, cá tính và hành động một cách khá toàn diện và tự do. Thông
qua tương tác với con người, thiên nhiên trở nên có hồn, có sự sống để trở thành
một nhân vật trung tâm trong thơ ca Mai Văn Phấn.
Những vẻ đẹp đó của thiên nhiên đi vào trong
thơ Mai Văn Phấn cho thấy cái nhìn trân trọng thế giới tự nhiên của thi sĩ. Trước
thiên nhiên trong lành, tươi mát, tâm hồn con người cũng dịu đi những toan
tính, âu lo trở nên trong trẻo, thánh thiện. Từ đó thức tỉnh thái độ trân trọng
tự nhiên đối với người đọc, mang đến sự thanh tẩy để con người coi tự nhiên là
một tiếng nói.
3.2.2. Những âu lo khi tự nhiên bị tàn phá
Không chỉ thể hiện một thiên nhiên căng tràn
sức sống, Mai Văn Phấn còn cảnh báo về một thiên nhiên trước nguy cơ bị tàn
phá. Thơ ca phản ánh sinh thái có một nội dung lớn đó là sự thể hiện về thiên
nhiên bị hủy hoại bởi tạo hóa và con người. Chính bởi thực trạng thiên nhiên
ngày càng bị phát hủy do mặt trái của sự phát triển mà nhân loại đang thực hiện,
mà văn học sinh thái, phê bình sinh thái ra đời. Sự phản ánh nguy cơ thiên
nhiên với những biểu hiện của nó như các loài động vật, thực vật hay những
quang cảnh, môi sinh đẹp đến mê hồn bị đặt trước sự phá hoại của con người là một
nội dung nhân văn của phê bình sinh thái. Trong thơ Mai Văn Phấn, bên cạnh sự thể
hiện về một sinh thái đầy sức sống thì cũng có sự thể hiện của một sinh thái dị
thường, bên bờ vực của sự nguy hiểm. Đó là nguy cơ các loài động vật bị săn bắn,
bắt bớ. Mai Văn Phấn miêu tả cảnh chim chóc lắng nghe tiếng súng lên nòng, bầy
con hà bị hung khói, con gấu bị giăng bẫy:
Chim chóc nghe
lách cách giữa thân cây tiếng viên đạn lên nòng, nấp vào đám mây bị quay vàng
trong hoàng hôn chảo lửa
Con hà sặc khói hun mở miệng luận bàn về sự bất tử của nước và thoáng chốc
con thuyền
Con gấu ôm trọn
tổ ong buông mình từ đỉnh cây xuống nơi giăng bẫy (Mùa hạ rất gần)
Thêm một tiếng kêu hốt hoảng mà con quạ mang đến:
Con quạ bay vào phòng
Một ngón tay giơ lên yếu ớt
Ý nói:
Đây là họng
súng
Là lưỡi mác
Thậm chí là cuốc
thuổng
Thậm chí chính
ngón tay rất cứng
(Biến tấu con quạ)
Trong đời sống và tạo hóa đầy hiểm nguy như
vậy, những cảnh sắc của thiên nhiên nhiên vốn tươi đẹp cũng trở nên tàn úa và
man mác đau buồn. Những cảnh cây cối hoa lá trong thơ Mai Văn Phấn thường là những
cảnh cây cối hoa lá đầy sức sống, nhưng không phải lúc nào cũng vậy, cũng có
những những cảnh úa tàn, đổ gục hiện ra. Nhà thơ tả một con đường đầy ánh trăng
dẫn đến những nơi hoang vu, hoang dại:
Nước mắt đầu non nở thành
hoa dại
Rũ tàn phiêu dạt chốn cô
liêu
(Vầng trăng và con đường)
Thơ Mai Văn Phấn không ngoại trừ những cảnh
tàn úa của các loài hoa ví dụ như “sen tàn chờ gió rung chuông”, “tàn lá đung đưa
như bát nước đầy”, những cảnh tàn héo của mùa vụ như “tháng ngày tàn héo xuân
xanh”, hay sự tàn héo của tâm hồn “các chị cầm tan nát đóa hoa mưa”... Nhà thơ
thấy được rằng bông hoa kia dù đã tàn tạ nhưng hương thơm của nó vẫn còn ám ảnh
đời cây:
Hoa tàn
cây vẫn còn đau
Hương thơm quyến luyến
trên đầu cỏ xanh
(Kinh cầu ban mai)
Thiên nhiên trong Thơ Mai Văn Phấn cũng đầy dự
cảm bất trắc về sự đổ vỡ và ám ảnh. Nỗi lo tan tác lòng ao sâu trong hai câu
thơ sau cũng là nỗi lo rạn vỡ những giá trị truyền thống trong thời đương đại:
Chênh vênh nhịp cầu ao
...
Xin đừng ai khẽ động
Mà tan lòng ao sâu
(Nét quê)
Hình ảnh giọt sương xé tan mạng nhện để nhỏ
lên các ngọn cỏ sắc lạnh cũng là một hình ảnh đầy dự cảm:
Võng nhện sương tan xé rách
Lưỡi cỏ mềm tự do
(Linh hồn đã bay)
Những biểu hiện của biến đổi thiên nhiên thời
tiết mà cả nhân loại ngày nay đang lo ngại cũng được phản ánh trong cảm hứng về
một thiên nhiên đầy bất trắc. Hiện tượng tan băng được nhắc đến:
Đúng hơn là đông cứng
Rồi băng đá
Rồi rữa tan
Vừa là biểu tượng của sự trường tồn, của sức
sống nhưng cũng vừa biểu tượng cho một sự đổ vỡ, tiềm ẩn nhiều nguy cơ, nhiều bất
trắc, thiên nhiên trong thơ Mai Văn Phấn đã đưa ra một thông điệp về một môi
sinh vốn đẹp đẽ nhưng đang đứng trước nguy cơ bị phá hủy, bị lạm dụng trở thành
một môi trường tàn úa, ẩn chứa cái chết và sự hủy diệt. Cảm quan sinh thái về một
môi sinh bị phá hủy là tiếng nói đầy tính cảnh tỉnh và nhân văn của Mai Văn Phấn.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Trọng tâm của Chương 3 là vấn đề đạo đức sinh
thái. Về bản chất, đây là mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Thơ Mai Văn
Phấn luôn coi người mẹ là cội nguồn của sự sống; tái hiện hình ảnh người tình và hình ảnh tôi, anh hết sức sinh động. Nó cho thấy
thơ Mai Văn Phấn vừa ngợi ca thiên nhiên trong vai trò trung tâm của thế giới,
vừa miêu tả sự giao hòa, giao cảm giữa con người với thiên nhiên, từ đó thức tỉnh
đạo đức sinh thái.
KẾT LUẬN
1. Phê bình sinh thái là một thuật ngữ văn học tuy cũ với thế giới
nhưng mới đối với Việt Nam. Phê bình sinh thái là một sự kết hợp giữa tư duy
văn học với tư duy khoa học tự nhiên, đặt vấn đề nhân văn, nghệ thuật với những
vấn đề sinh học, địa lý, vật lý... Phê bình sinh thái lấy thiên nhiên, mối quan
hệ giữa thiên nhiên và con người làm trung tâm khai thác, đánh giá, liên hệ.
Mục đích của phê bình sinh thái là muốn hướng con người đến thái độ tôn trọng,
bảo vệ tự nhiên cũng là việc tôn trọng bảo vệ sự trường tồn của nhân loại. Phê
bình sinh thái lấy chủ nghĩa sinh thái học làm nền tảng tư tưởng, vận dụng tối
đa thành tựu nghệ thuật văn học làm thi pháp. Cội nguồn của phê bình sinh thái
phát tích ở các nước phương Tây vào nửa cuối thế kỷ 20, khi con người nhận thấy
sự phát triển công nghiệp đã hủy hoại khủng khiếp môi trường tự nhiên. Phê bình
sinh thái nổi lên như một đối nghịch với quan điểm con người là trung tâm vốn
đã thâm căn cố đế trong tư tưởng của người phương Tây. Phê bình sinh thái đến
phương Đông chậm hơn nhưng thực ra lại tìm được sự đồng cảm và chia sẻ nhanh
hơn bởi tư tưởng phương Đông rất gần với tư tưởng của chủ nghĩa sinh thái học,
đặc biệt là các quan điểm cổ đại của Trung Quốc và Ấn Độ. Phê bình sinh thái
đang dần trở nên quen thuộc trong nền văn học Việt Nam, đã có không ít tác giả
thành công nhờ vào phê bình sinh thái.
2. Mai Văn Phấn là một nhà thơ đương đại theo xu hướng cách tân
thơ Việt để tiến tới sự ổn định và tạo nền cho một phong cách thơ Việt hiện
đại. Ông đã trải qua ba chặng đường sáng tác trong suốt gần 30 năm nay. Chặng
đường thứ nhất từ khởi nghiệp đến năm 1995, Mai Văn Phấn khởi nghiệp thơ ca với
những bài thơ mang phong cách truyền thống cả về nội dung và hình thức. Ở giai
đoạn này, Mai Văn Phấn táo bạo khi cách tân thể thơ lục bát một
cách mới lạ chưa từng có. Chặng đường thứ hai của ông từ 1995 đến 2000, người
ta thấy một Mai Văn Phấn nỗ lực bứt phá, cách tân đầy bản lĩnh. Chặng đường thứ
ba từ năm 2000 đến nay, Mai Văn Phấn đã định hình được phong cách và ngày càng
bản lĩnh, sáng tạo. Mai Văn Phấn quan niệm về thơ rất sâu sắc. Nhưng điều để
người đọc nhớ đến Mai Văn Phấn nhiều nhất là phong cách của một nhà thơ luôn
cách tân, luôn tự làm mới mình, một nhà thơ đầy sức sáng tạo, luôn nhìn thế
giới ở sự sống, sự phồn vinh, sự hóa sinh đầy tính bất định.
Từ góc nhìn phê bình sinh thái, chúng ta thấy thơ ông mang cảm
quan sinh thái sâu đậm. Nhà thơ nhìn thế giới sinh vật, thế giới tự nhiên trong
mối quan hệ lẫn nhau từ đó khái quát thành cảm hứng nghệ thuật và thể hiện
trong tác phẩm văn học. Những phương diện sinh thái cơ bản trong thơ Mai Văn
Phấn bao gồm: đất đai, nước, lửa, bầu trời... Những yếu tố đó khái quát nên một
thế giới tự nhiên đa dạng, phong phú từ thành phần, cho tới xu hướng phát
triển, thể hiện những đặc trưng cơ bản là sự sống, trường tồn và có hồn. Những
phương diện sinh thái ấy được thể hiện trong một ngôn ngữ thơ mà ở đó chúng
hiện lên là một thiên nhiên phồn sinh, giàu có, luân hồi, là một thế giới ổn
định, hài hòa, tươi đẹp song cũng là một thế giới tự nhiên đầy ắp các nguy cơ
bị phá hủy, bị phai tàn trong sự phát triển của nhân loại. Bởi thế, nâng niu,
trân quý và bảo vệ thiên nhiên cũng là thông điệp nghệ thuật Mai Văn Phấn muốn
gửi đến chúng ta.
3. Những đóng góp của Mai Văn Phấn trong việc biểu đạt thế giới từ
ngôn ngữ sinh thái đã góp phần tạo nên vẻ đẹp của thơ ông. Mặt khác, nó cũng
thể hiện sự nhạy cảm của các nghệ sĩ đương đại. Cũng như các nhà thơ, nhà văn
tài năng khác, Mai Văn Phấn đã góp phần tạo thành một xu hướng văn học mới ở
Việt Nam. Xu hướng ấy có thể gọi là văn học sinh thái.
Thơ Mai Văn Phấn đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Tuy
nhiên, từ góc nhìn phê bình sinh thái chúng ta cũng có thể nhận ra rằng thơ Mai
Văn Phấn chưa hẳn đã đạt đến sự hoàn mỹ. Thơ ông sẽ khó hiểu đối với nhiều độc
giả. Những hình ảnh thể hiện cảm quan sinh thái của ông đôi lúc sẽ làm độc giả
choáng ngợp về sự biểu hiện của chúng và những ý niệm mà chúng ẩn chứa. Phương
diện nghệ thuật của thơ ông mang tính cách tân, điều đó là rất cần thiết cho sự
phát triển văn học song ở mức độ nào đó sẽ là rào cản đối với bạn đọc bình dân
và đôi khi là những học giả, nghiên cứu. Nhà thơ Hữu Thỉnh từng nhận định đại ý
rằng thơ Mai Văn Phấn giàu chiêm nghiệm, thể nghiệm, say sưa kiếm tìm cái mới,
nhưng chính vì vậy mà đôi lúc khiến ông sa đà vào cách tân để cho một số chỗ
còn “sượng và còn vướng nhiều phụ tùng quá”. Điều đó là có thể bởi sự cách tân
thường đi trước thời đại, trước tư duy của người cùng thời như tên một tác phẩm
ông đặt. Điều đó lại càng làm mồi lửa cho sức sáng tạo của Mai Văn Phấn để đạt
đến sự hoàn thiện mà bao nhà thơ ước ao, mong muốn.
DANH MỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng
Hữu Các (2009), Tập thơ và đột nhiên thổi gió của nhà thơ Mai Văn Phấn,
đăng
trên: maivanphan.com
2. Nguyễn
Việt Chiến, Mai Văn Phấn trong “vòng xoáy” của thơ hậu - hiện - đại, đăng trên:
maivanphan.com
3. Nguyễn
Việt Chiến, Người tụng ca thiên nhiên bằng tình yêu mật rót, đăng trên:
maivanphan.com
4. Nguyễn
Đăng Điệp (chủ biên) (2012), Thơ Việt Nam hiện đại và Nguyễn Quang Thiều, Nxb.
Hội nhà văn, Hà Nội.
5. Nguyễn
Đăng Điệp (2014), Thơ Việt Nam hiện đại tiến trình và hiện tượng, Nxb. Văn học,
Hà Nội.
6. Văn Giá,
Thơ sinh ra để nói niềm hy vọng của con người, đăng trên: maivanphan.com
7. Ngô
Hương Giang, Nguyễn Thanh Tâm (2015), Mai Văn Phấn và hành trình thơ vào cõi
khác, Nxb. Hội nhà văn, Hà Nội.
8. Greg
Garrard (2004), Ecocriticism, Routledge, New York, US.
9. Hồ Thế
Hà, Thơ tạo sinh nghĩa Mai Văn Phấn,
đăng trên:
https://phebinhvanhoc.com.vn/tho-tao-sinh-nghia-mai-van-phan/
10. Lê Bá
Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2004), Từ điển thuật ngữ
văn học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
11. Đào Duy
Hiệp, Mai Văn Phấn – những chặng đường sáng tạo thơ, đăng trên: maivanphan.com
12. Đỗ Văn
Hiểu, Phê bình sinh thái – cội nguồn và sự phát triển (phần 1/2), đăng trên:
phebinhvanhoc.com.vn
13. Đỗ Văn
Hiểu, Phê bình sinh thái – khuynh hướng nghiên cứu văn học mang tính cách tân,
đăng trên:
http://tapchisonghuong.com.vn
14. Thi
Hoàng, Cách tân, như là đẩy thơ vượt qua tai họa,đăng trên: maivanphan.com
15. La Khắc
Hoà (2006), Đề cương chuyên luận Thi pháp kết cấu của B. Uspenxki, trình bày
tại Viện Văn học.
16. I.P.
Ilin và E.A. Tzurganova (chủ biên) (2002), Các khái niệm và thuật ngữ của các
trường phái nghiên cứu văn học, Nxb. ĐHQG, Hà Nội, Đào Tuấn Ảnh, Trần Hồng Vân,
Lại Nguyên Ân dịch.
17. Inrasara,
Mai Văn Phấn, kết thúc cho một khởi đầu, đăng trên: maivanphan.com
18. Karen
Thornber, Hải Ngọc dịch, Những tương lai của phê bình sinh thái và văn học,
đăng trên:
http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn
19. Kate
Rigby (2010), Phê bình sinh thái,
đăng trên:
http://2konmuwkj.wordpress.com/2013/06/02, 02/06/2013
20. Đình
Kính (2011), Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn khác biệt và thành công, Nxb. Hội
Nhà văn, Hà Nội.
21. Khuynh
hướng văn xuôi sinh thái Việt Nam sau năm 1975,
đăng trên:
http://data4u.vn/tin-tuc/khuynh-huong-van-xuoi-sinh-thai-viet-nam-sau-nam-1975/1013.aspx
22. Hoàng
Tố Mai (chủ biên, 2017), Phê bình sinh thái là gì?, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
23. Dương
Kiều Minh, Lộ trình thơ Mai Văn Phấn, đăng trên:
http://www.vnweblogs.com/post/2810/184241
24. Vương
Nặc (2002), Sinh thái phê bình: Phát triển dữ uyên nguyên,
đăng trên:
http://blog.sina.com.cn/s/blog_478143830100app6.html, 04/09/2008
25. Hải
Ngọc, Những tương lai của phê bình sinh thái và văn học,
đăng trên:
http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn
26. Phạm
Xuân Nguyên, Thơ là ngôi lời,
đăng trên:
maivanphan.com
27. Trần
Thị Ánh Nguyệt, Thiên nhiên trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư từ góc nhìn phê
bình sinh thái, đăng trên: https://phebinhvanhoc.com.vn/13620-2/
28. Trần
Thị Ánh Nguyệt, Thiên nhiên – Nguồn cảm hứng bất tận của văn chương phương
Đông,
đăng trên:
ttp://www.vanhoanghean.com.vn
29. Mai Văn
Phấn (1995), Tập thơ Gọi xanh, Nxb. Hội Nhà văn Việt Nam, Hà Nội.
30. Mai Văn
Phấn (1997), Tập thơ Cầu nguyện ban mai, Nxb. Hải Phòng, Hải Phòng.
31. Mai Văn
Phấn (1997), Tập thơ Bầu trời không mái che, Nxb. Hải Phòng, Hải Phòng.
32. Mai Văn
Phấn (1999), Nghi lễ nhận tiên, Nxb. Hội Văn nghệ Hải Phòng, Hải Phòng.
33. Mai Văn
Phấn (2003), Vách nước, Nxb. Hải Phòng, Hải Phòng.
34. Mai Văn
Phấn (2009), và đột nhiên gió thổi, Nxb. Văn học, Hà Nội.
35. Mai Văn
Phấn (2013), Vừa sinh ra ở đó, Nxb. Hội Nhà văn Việt Nam, Hà Nội.
36. Mai Văn
Phấn (2015), Nước đang chảy qua trái đất, Nxb. Hội Nhà văn Việt Nam, Hà Nội.
39. Vĩnh
Phúc, Mai Văn Phấn với Hôm sau & và đột nhiên gió thổi,
đăng trên: http://maivanphan.com
40. Lê Hồ
Quang, Đặc trưng thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn,
đăng trên: http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh
41. Serpil
Oppermann (1999), Ecocriticism: Natural world in the literary viewfinder,
đăng trên:
http://www.asle.org/wp-content/uploads/ASLE_Primer_Oppermann
42. Đặng
Văn Sinh, Mai Văn Phấn và khúc biến tấu Hôm sau,
đăng trên: http://maivanphan.com
43. Trần
Đình Sử, Phê bình sinh thái tinh thần trong nghiên cứu văn học hiện nay,
đăng
trên:
https://trandinhsu.wordpress.com
44. Nguyễn
Thanh Tâm, Lập thể của ký ức và tưởng tượng xuyên qua Bầu trời không mái che,
đăng trên: http://maivanphan.com
45. Nguyễn
Ngọc Thiện, Xóa nhòa ranh giới giữa thơ ca và văn xuôi trong thơ văn xuôi của
Mai Văn Phấn,
đăng trên: http://maivanphan.com
46. Thơ
Dương Kiều Minh (2011), Nxb. Hội nhà văn, Hà Nội.
47. Thơ
tuyển Mai Văn Phấn cùng tiểu luận và trả lời phỏng vấn (2011), NXB Hội nhà văn,
Hà Nội.
48. Nhã
Thuyên, Khí quyển thơ – sinh thái của Mai Văn Phấn: Thơ, bầu trời và những linh
hồn,
đăng trên: http://toquoc.vn/van-chuong-va-du-luan
49. Nguyễn
Thị Tịnh Thy (2016), Rừng khô, suối cạn, biển độc,…và văn chương, NXB Khoa học
xã hội, Hà Nội.
50. Nguyễn
Thị Thùy Trang, Dấu ấn chủ nghĩa siêu thục trong thơ Mai Văn Phấn,
đăng trên: http://maivanphan.com
51. Viện
Văn học (2017), Phê bình sinh thái: Tiếng nói bản địa – Tiếng nói toàn cầu (Kỉ
yếu hội thảo quốc tế), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
52. Vương
Nhạc Xuyên (2016), Văn học sinh thái và lí luận phê bình sinh thái (Đỗ Văn Hiểu
dịch),
đăng trên:
http://nguvan.hnue.edu.vn/Nghiencuu/Lyluanvanhoc