Mạch nước ngầm trong thơ Đinh Thị Như Thuý (phê bình) - Mai Văn Phấn

Mạch nước ngầm trong thơ Đinh Thị Như Thúy

 

 

 

Nhà thơ Đinh Thị Như Thuý

 

 

Mai Văn Phấn

Ở đâu đó đâu đó có thể đêm đang vĩnh hằng theo nhịp thơ thả buông

Đinh Thị Như Thúy

 

Đọc ba tập thơ đã xuất bản của Đinh Thị Như Thuý, “Cùng đi qua mùa hạ” (Nxb Văn Nghệ, 2005), “Phía bên kia cây cầu” (Nxb Phụ nữ, 2007), “Ngày linh hương nở sáng” (Nxb Hội Nhà văn, 2011) và những bài thơ chị mới công bố, tôi như thấy bóng dáng một đời sống khác đang dần hiện rõ sau những ngổn ngang ý tưởng và “lớp vỏ” ngôn từ. Đời sống ấy không giống những vỉa quặng lộ thiên mà chìm ẩn nơi tầng sâu không dễ dàng nhận biết. Tôi muốn ví nội lực và vẻ đẹp ấy trong thơ Đinh Thị Như Thúy tựa mạch nước ngầm lặng lẽ chuyển dịch trong lòng đất, làm màu mỡ đất đai, cho cây lá tốt tươi, đơm hoa kết trái.

 

Tôi thực sự bị quyến rũ và ám ảnh bởi một cảnh giới khác hiện hữu trong đó, với những mạch nước ngầm đang ngưng tụ, cuộn chảy trong những tác phẩm của chị. Chúng ta thường đi qua những miền đất có dòng chảy ngầm này nhưng ít khi nhận biết sự hiện hữu ấy nếu không chú tâm tìm kiếm.

 

Mạch nước trong thơ Đinh Thị Như Thúy đã gợi cho tôi liên tưởng tới người mẹ hiền luôn âm thầm trong bóng tối, tận tâm tận lực để những đứa con cuồn cuộn chảy nơi ánh sáng:

 

“có thể dòng chảy cuộc đời tôi

chưa bao giờ cuồng loạn

nhưng tim tôi sóng ngầm luôn cuộn

vì những bông hoa dại

thầm lặng nở trên cỏ ướt

như những mảnh mặt trời” (Trong khu vườn cỏ dại).

 

Mạch nước ấy chính là những khao khát của nhà thơ nhằm đem lại mát lành, hạnh phúc cho cuộc đời, cho thế gian, khi 

 

Mặt đất bỏng sôi trái tim khao khát” (Đất),

Tất cả những tâm hồn nhất loạt trống rỗng” (Và bản nhạc ấy).

 

Đọc thơ chị, tôi hình dung một người đàn bà sống trong ngôi nhà nhỏ ven rừng cao nguyên với chồng chất những lo toan vất vả, có lúc cảm thấy chị như “quá tải” với bổn phận làm mẹ, làm vợ, làm một người bình thường. Nhưng chị đã tìm thấy cái tôi đích thực trong đời sống riêng của mình. Khu vườn nhà, bông hoa quỳ vàng có vẻ như chỉ mình chị nhìn thấy, tiếng nước tưới lên tán lá cà phê mỗi sáng tưởng chừng chỉ mỗi chị nghe. Song không phải, thế giới tưởng như riêng tư ấy của Đinh Thị Như Thúy lại phản chiếu rất rõ trong nó nhiều hệ lụy mang tính phổ quát của đời sống cá nhân và thời đại hôm nay. Đọc thơ chị, tôi bỗng nhớ đến nữ văn sĩ Emily Brontë[1] sống đơn độc gần như cả đời trên một ngọn đồi trơ trọi, cách biệt với xã hội bên ngoài, nhưng bà đã viết nên tiểu thuyết “Đồi gió hú” (Wuthering Heights) bất hủ.

 

“Em vẫn nghe gió nổi

Gió vun vút rượt đuổi

Kiểu này một thế giới khác sẽ được mang đến

Khi một thế giới khác đã được mang đi” (Ở một nơi không còn rừng).

 

Những câu thơ ấy khiến tôi ngỡ ngàng tự hỏi, người đàn bà ấy đã đứng ở đâu và khi nào, để có thể trở thành nhân chứng cho những dịch chuyển của vạn hữu trong thiên nhiên, đời sống. Trong Lời tác giả ở tập thơ “Phía bên kia cây cầu”, nhà thơ bày tỏ: “Giữa những bổn phận, những ràng buộc tôi có cơ hội trốn chạy, trốn chạy bao nặng nề, sợ hãi, ám ảnh về cái chết, sự chia ly, cái vô nghĩa, sự phản bội, muôn vạn mệt mỏi, và muôn vạn phiền muộn khác mà mỗi con người đều phải gánh chịu trong cuộc đời. Cây cầu trở thành ranh giới để tôi qua lại giữa cuộc sống thực với bộn bề công việc buộc ta phải thăng bằng, và cuộc sống mộng nơi ta có thể tự do buông thả, chiêm nghiệm. Vì thế trốn chạy không có nghĩa là vuột thoát mà mang ý nghĩa kiếm tìm[2].

 

Cuộc trốn chạy-kiếm tìm của nhà thơ Đinh Thị Như Thuý, theo tôi, bắt đầu từ tập thơ “Phía bên kia cây cầu”. Những câu hỏi truy vấn, hành động truy tìm thường xuyên xuất hiện trong tập thơ này, trở thành cách nhìn đời sống và thủ pháp mô tả đặc trưng của nhà thơ. Trong bài thơ “Hát ở làng chài”, cụm từ ở đâu đó đâu đó là câu hỏi và cũng là câu nhà thơ tự trả lời. Những câu thơ thể hiện trạng thái bơ vơ, bâng quơ, khó xác định nhưng len lỏi vào nơi sâu kín nhất trong tâm thức và tình cảm con người:

 

Ở đâu đó đâu đó có thể đang đi ra đi vào một đôi chân bị bùa mê không tìm thấy con đường cỏ lông chông ven biển

... Ở đâu đó đâu đó có thể tự dưng rồi thấy mình giữa đám đông ồn ã...

... Đâu rồi đâu rồi đâu rồi khuôn mặt hân hoan ngày nắng đẹp...

... Ở đâu đó đâu đó có thể cát đang chuồi đi...

... Những mắt lưới rã rời câm lặng, những tay sóng bải hoải ôm ghì, những môi cát lăn lăn trì níu...

Ở đâu đó đâu đó có thể đêm đang vĩnh hằng theo nhịp thở thả buông”.

 

Bài “Đã có sai lầm ở đâu đó” trong tập thơ “Phía bên kia cây cầu”, theo đánh giá của tôi, là một bài thơ tiêu biểu cho phong cách của Đinh Thị Như Thuý. Nguyên văn bài thơ như sau:

 

Đã có sai lầm ở đâu đó

 

đã quá lâu rồi

chúng ta không làm sao chạm được chân vào mặt đất

không làm sao thoát được cảm giác bị treo lơ lửng trong không trung

không làm sao có nổi nụ cười

không làm sao tránh được ý nghĩ ta chẳng thể mang đến dù bất cứ điều gì cho những người thân quanh ta

 

đã quá lâu rồi

chúng ta không làm sao chạm được tay mình vào tay những người mình yêu dấu

 

đã có sai lầm ở đâu đó trong chuỗi thời gian chúng ta sống

đã có điều gì đó không kịp thời

đã có cái gì đó chắn ngang đường

 

giá như chúng ta được lùi lại

giá như chúng ta được bắt đầu

giá như chúng ta biết mình phải làm gì

 

ký ức là thùng rác nhưng không phải chỉ là thùng rác

chúng ta phải bới tung lên

 

đã quá lâu rồi

thói bè phái kéo chúng ta đi

lòng ích kỷ kéo chúng ta đi

nỗi ươn hèn khiếp nhược kéo chúng ta đi

như cơn cuồng phong đi qua cánh đồng

kéo theo đi những bông bồ công anh khô nỏ

 

Bằng ngôn ngữ tự sự giản dị, kết hợp với cách kiến tạo hình ảnh góc cạnh, chính xác, bài thơ này mang đến một ấn tượng mạnh mẽ và ám ảnh về một đời sống quái đản, dị thường. Trong một khung cảnh bừa bộn được dựng lên, ta thấy con người bị tước đoạt hết những quyền tối thiểu, như chạm được chân vào đất, nụ cười, chạm được tay mình vào tay những người mình yêu dấu... Hiện thực đời sống được phô bầy ngổn ngang trong bài thơ. Bài thơ không đặt dấu hỏi cho một hiện tượng cụ thể nào trong xã hội, nhưng tinh thần của nó là sự truy vấn thẳng thắn và dữ dội với cái xấu, cái tiêu cực đang diễn ra hàng ngày, trong những góc khuất của mỗi con người. Cách đặt tên bài thơ “Đã có sai lầm ở đâu đó” vừa là một câu nghi vấn, đồng thời là sự khẳng định nhà thơ đã tìm ra cái lỗi hệ thống đó ở đâu. Không như thái độ có phần e dè ở những tác phẩm khác, trong bài thơ này Đinh Thị Như Thúy đã thể hiện thái độ quyết liệt, truy tìm bằng được những sai lầm nằm ở đâu và khi nào (?): 

 

ký ức là thùng rác nhưng không phải chỉ là thùng rác

chúng ta phải bới tung lên”. 

 

Đến đây, người đọc đã rõ nguyên nhân và có thể tự trả lời hàng loạt câu hỏi mà nhà thơ đặt ra từ đầu bài thơ. Vào thời điểm này, nhà thơ đã “đứng lại” để người đọc “đi tiếp” theo những suy tưởng, phán đoán của riêng mỗi người:

 

đã quá lâu rồi

thói bè phái kéo chúng ta đi

lòng ích kỷ kéo chúng ta đi

nỗi ươn hèn khiếp nhược kéo chúng ta đi”. 

 

Tất cả những điều khủng khiếp ấy được nhà thơ ví như cơn cuồng phong quét trên mặt đất, và con người trong đó tựa những bông bồ công anh khô nỏ. Những hình ảnh trong bài thơ, đặc biệt là câu thơ kết cho tôi liên tưởng tới bức tranh Tiếng thét của danh họa Edvard Munch[3]. Bức tranh vẽ một con người với vẻ mặt đầy âu lo, tuyệt vọng đến tột cùng trên nền trời màu vàng cam, đã lột tả được cảm xúc hoảng loạn, nỗi sợ hãi của nhân vật trước hiện thực đời sống đang diễn ra và những dự cảm bất an đến gần.

 

Thơ Đinh Thị Như Thúy đưa bạn đọc đến với cảm nhận về một hiện thực đời sống đầy trăn trở âu lo như vậy. So với tập “Phía bên kia cây cầu”, trong “Ngày linh hương nở sáng” và những bài thơ công bố gần đây cho thấy, trạng thái u uẩn, quẫn bách của nhà thơ dường như ngày càng gia tăng. Tâm trạng ấy được chị dồn đẩy tới mức, tựa như con chim trúng tên, chuột chạy cùng sào. Có thể điểm ra một số bài thơ sau để thấy cách “định vị” của nhà thơ trên vùng đất tranh tối tranh sáng, bị nhiễu sóng này: “Ở một nơi không còn rừng”, “Ngày nhiễm độc”, “Bão số 6”, “Trong thế giới hoảng loạn của sự mục ruỗng”, “Tháng tư, cơn nhức đầu và những hoảng loạn”, “Những ban mai không có mặt trời”, “Trận cảm cúm và sự im lặng (không phải của bầy cừu)”, “Cái gì đã xảy ra giữa chúng ta”…

 

Bài thơ “Một công viên xây mãi không thành” được nhà thơ cho ra mắt sau tập thơ “Ngày linh hương nở sáng” khẳng định cái nhìn của Đinh Thị Như Thúy ngày càng chính xác, sắc lạnh hơn về hiện thực đời sống, về những dự báo tiêu cực sẽ đến. Giai đoạn gần đây, ngôn ngữ thơ của chị được chắt lọc, tối giản hơn trước. Cách sử dụng liên tiếp những động từ và đặt chúng cạnh nhau đã đẩy tốc độ hình ảnh đi nhanh hơn, những thông điệp chuyển đến bạn đọc cũng hiệu quả hơn. Những chi tiết hình ảnh trong bài thơ tái hiện một công viên đang xây dở và sẽ không thể hoàn thành được bởi nhiều lý do (!).

 

Đu quay chưa bao giờ quay. Vòng ghế tròn như cánh quạt của chiếc cối xay gió khổng lồ. Cô đơn. Sừng sững. Han gỉ rồi mục ruỗng”.

 

Bài thơ có câu kết đột ngột rất lạ, tựa như ngọn đèn bất ngờ bật sáng cho bạn đọc nhìn thấy được mọi bí mật trong những góc khuất tối tăm nhất của đời sống này: “Nơi đây. Tràn đầy nỗi sợ”.

 

Có thể thấy, thơ là giải pháp tinh thần duy nhất để Đinh Thị Như Thúy trốn chạy vào những mạch nước ngầm. 

 

Em nghĩ là em không còn con đường nào để trốn chạy

Em vùi em vào thân thể anh” (Ở một nơi không còn rừng).

 

Cuộc kiếm tìm hạnh phúc, cái đẹp không phải lúc nào cũng thấy và dễ gặp. Nhà thơ cho chúng ta nhận biết cái đích của sự sống thường ở phía sau màn sương mù dày đặc, mà ai muốn đi đến đó phải vượt qua muôn vàn gian khó, cạm bẫy hiểm nguy:

 

ngay lúc đó nàng cay đắng nhận ra mình đã đánh mất chiếc lưỡi trong những triền miên trốn chạy”. (Ngày nhiễm độc).

 

Đoạn thơ sau đây trong bài “Chúng ta đã phải mang vác quá nhiều” gợi cho tôi liên tưởng tới một con cá bị mắc cạn. Con cá ấy không biết quẫy về hướng nào, làm cách nào để thoát khỏi lưỡi dao tử thần đang kề sát nó. Ngôn ngữ trong đoạn thơ này biểu hiện một trạng thái mê sảng, lẫn lộn và rối loạn: 

 

Nhìn hay không nhìn có khi nhìn mà không thấy không nhìn mà thấy cũng như bước vào và đứng yên có khi đứng yên mà tràn ngập cảm giác bước vào còn bước vào lại trống rỗng hay như đối đầu hoặc chạy trốn có khi nào đối đầu lại là chạy trốn không làm thế nào mà biết”.

 

Hình ảnh ngọn đồi và cơn gió luôn hiện lên phóng khoáng và rất đỗi gần gũi trong cuộc trốn chạy-kiếm tìm của nhà thơ Đinh Thị Như Thuý. Những hình ảnh này thường ấp ủ và mang những giấc mơ của nhà thơ đi xa. 

 

Anh sẽ không thể biết

Sóng gió đang dậy lên

Những nụ hoa đang gấp gáp lớn

Những lá cỏ đang gấp gáp xanh” (Đã luôn mơ một hình ảnh khác về thế giới này);

 

Nhớ làm sao những ngọn gió phóng túng rượt đuổi qua những ngọn đồi

Những lượn cỏ ngả nghiêng đổi sắc màu đắm đuối” (Nhớ gió);

gió là một thực thể tồn tại rõ rệt và xâm chiếm dày đặc suốt không gian thời gian còn hơn cả con người” (Và... gió đêm lại đến).

 

Đồi núi thường hiện ra hùng vĩ mà gần gũi trong thơ Đinh Thị Như Thuý, tựa như bóng dáng người cha, một trụ cột vững chãi che chở cho chị, luôn cưu mang, nâng đỡ chị qua những cơn hiểm nghèo: 

 

Sự phơi mở luôn làm choáng ngợp ngọn đồi. Dẫu vẫn ngần ngại, nhưng để thoát khỏi bóng tối nở bung là con đường nụ hoa phải đi”. (Cõi ảo).

 

Đồi núi cũng hiện hữu thành ngôi nhà thân thuộc để nhà thơ đi về, thành miền chờ đợi qua đêm tối: 

 

Những người đàn bà mang giấc mơ bất ổn chôn trên sườn đồi đêm đêm chờ mưa chờ quên lãng nghe trong tiếng sấm khắc khoải có niềm âu lo rồi đồi hoang sẽ không còn là đồi hoang nữa” (Dâng hiến dã quỳ).

 

Nếu chỉ đọc lướt qua, ta dễ có cảm giác ngôn ngữ thơ Đinh Thị Như Thúy chưa được tinh lọc, có lúc như dễ dãi, thừa thãi. Tôi đồ rằng, do nhà thơ chú tâm đuổi theo mạch cảm xúc nên nhiều câu thơ của chị dài dòng, thậm chí gần với văn xuôi. Một số câu trong tập thơ “Cùng đi qua mùa hạ” thủ pháp không có gì mới, như phố núi ướt nhòa, xanh thắm nắng ngời, buông mình vào xa thẳm mông mênh… Đây cũng là những khiếm khuyết khó tránh khỏi trong tác phẩm đầu tay của một tác giả trẻ. Sự vụng về ấy cũng từng xuất hiện trong một số bài thơ của tôi thời gian mới bén duyên thơ.

 

Nhưng, như tôi đã nói ở phần đầu, thơ của Đinh Thị Như Thúy cho tôi cảm nhận dưới bề mặt thô nhám, ngổn ngang của đời sống hiện thực là mạch nước ngầm luôn ngưng tụ, chảy trôi. Dù phản ánh những âu lo, sợ hãi, song trong những câu thơ của Đinh Thị Như Thúy vẫn loé lên ánh sáng và hy vọng. Nhà thơ từng tâm sự: “Tôi cho rằng mình đã may mắn khi được sống ở Tây Nguyên. Một vùng đất khắc nghiệt dữ dội nhưng đẹp đẽ sống động không để cho ai có cơ hội nhàm chán. Tôi luôn ngạc nhiên trước những thay đổi của thiên nhiên nơi này[4]. Phải chăng, vùng đất Tây Nguyên với thiên nhiên nguyên sơ, trong sạch đã đem đến cho thơ Đinh Thị Như Thúy nhiều ý tưởng mới cùng cảm xúc tự do, khoáng đạt? Tây Nguyên đã hiện lên trong thơ Đinh Thị Như Thuý trùng điệp khoáng hoạt khi chị viết về những nông trường cà phê bạt ngàn trên mảnh đất bazan:

 

Ào ạt mưa theo gió lướt nhanh thành từng vệt dài trên các ngọn đồi trên những con đường trên các bụi cây trụi lá mưa dần trắng xoá không sao nhìn thấy nữa những rẫy cà phê ngút ngát” (Chuyện tháng tư);

 

lúc ám ảnh, khắc nghiệt khi nhà thơ lên tiếng về một vùng thiên nhiên bị chính con người hủy hoại, tàn phá: 

 

Mùa bướm

Tất thảy những khung cửa đều mở ra rờn rợn

Tất thảy những con suối đều khô

Tất thảy những bông hoa đều cúi mặt” (Mùa bướm).

 

Nhà thơ Đinh Thị Như Thúy sinh năm 1965 tại Huế, tốt nghiệp Đại học Đà Lạt và dạy học tại huyện Krông Pắc, tỉnh Đắc Lắc. Tây Nguyên vốn không phải nơi chôn nhau cắt rốn của chị. Nhưng mạch khí vùng đất này đã tạo nên vóc dáng, thần thái thơ chị. Có lẽ phần lớn những bài thơ có hương sắc đều được nhà thơ viết trên vùng đất cao nguyên với bạt ngàn cà phê, thông reo, đường đèo vàng rực hoa dã quỳ... Tôi đặc biệt ấn tượng với tiêu đề một tập thơ của Đinh Thị Như Thuý: “Ngày linh hương nở sáng”. Tiêu đề này cho tôi hình dung một người đàn bà vừa thức dậy trong buổi sáng nắng ấm trên cao nguyên miền Trung. Khuôn mặt người đàn bà ấy rạng ngời giữa bạt ngàn hoa vừa nở. Và ai đó đã chụp được bức chân dung này. Mỗi người xem chắc có nhận xét riêng về nhân vật trung tâm tấm hình đó. Với cảm nhận riêng tôi, người đàn bà trong tấm hình như chưa từng phải gánh chịu những vất vả khó nhọc, chưa từng ốm đau, chưa từng sa vào những trạng huống bi phẫn… Chị đang cùng những bông hoa linh hương “đăng quang” đầy tự tin và rất đỗi khiêm nhường. Tựa đề tập thơ đầy ứng nghiệm ấy của Đinh Thị Như Thúy mở ra trước mắt bạn đọc như một dải ánh sáng, những âm thanh của tưởng tượng (Lê Hồ Quang), làn hương thanh khiết. Hay, một lạch nước trong lành! Lạch nước ấy vừa nhẫn nại bò đi trong đêm tối, qua những khu rừng gai góc rậm rạp để hiển lộ cùng ánh sáng ngày mới.

 

Những mạch ngầm đã tạo ra phong cách riêng trong thơ Đinh Thị Như Thuý, góp phần làm nên diện mạo mới cho thơ Việt Nam đương đại. Thế hệ thơ mới này hiện đang sung sức với những cách tân, tìm tòi mới lạ, táo bạo. Thơ họ mỗi người một vẻ, tựa những lớp sóng gối lên nhau của những dòng hải lưu sâu trong lòng biển. Thơ của Đinh Thị Như Thúy tựa dòng hải lưu chảy ngầm dưới đáy đại dương, ôn hòa và ấm áp.

 

3/2016

 


___________________________

[1] Emily Jane Brontë (1818 – 1848):  nữ văn sĩ và thi sĩ người Anh.  

[2] Lời tác giả, trong tập thơ “Phía bên kia cây cầu” (Nxb Phụ nữ, 2007).

[3] Edvard Munch (1863 – 1944): họa sĩ trường phái Biểu hiện người Na Uy; bức tranh Tiếng thét  (tiếng Na Uy Skrik, hay tiếng Anh The Scream) nổi tiếng của ông được vẽ năm 1893.

[4] Đinh Thị Như Thuý trả lời phỏng vấn báo Thể thao & Văn hoá, 15/02/2012.

 

 

 


 

Photo: Gabriele Corno

 

 

 

 




 

BÀI KHÁC
1 2 3 

image advertisement
image advertisement
image advertisement




























Thiết kế bởi VNPT | Quản trị