Thơ Nguyễn Lương Ngọc: những cách tân khởi đầu (phê bình) - Mai Văn Phấn
Thơ Nguyễn Lương Ngọc: những cách tân khởi đầu
Nhà thơ Nguyễn Lương Ngọc
Mai Văn Phấn
những con đã sinh ra thì đã chết
những con chưa chết thì chưa sinh ra
Nguyễn Lương Ngọc
Nhà thơ Nguyễn Lương
Ngọc sinh năm 1958 tại Sơn Tây (Hà Tây cũ, nay thuộc Hà Nội). Ông cùng quê,
xuất hiện trên thi đàn cùng thời với Nguyễn Quang Thiều và Dương Kiều Minh. Ba
nhà thơ này sẽ được văn học sử ghi danh là những tác giả khởi đầu cho khuynh hướng
thơ cách tân sau 1986 tại Việt Nam. Họ là những nhà thơ quan trọng, sớm tìm ra
con đường riêng của mình trong hành trình sáng tạo. Có người còn dự đoán nhà
thơ Nguyễn Lương Ngọc sẽ “bẻ ghi” sau ba tập thơ đã xuất bản: “Từ
nước” (Nxb Hội Nhà văn, 1991), “Ngày sinh lại” (Nxb Thanh niên,
1991) và “Lời trong lời” (Nxb Văn học, 1994); nhưng hành trình thơ ấy đã dừng lại khi ông mới vào tuổi 43.
Ông tạ thế năm 2001 sau một thời gian gặp hiểm nạn. Lúc bước sang thế giới khác
là lúc ông đang căng tràn sức sáng tạo, để lại bao dự định ngổn ngang cho những
cuộc khởi hành kế tiếp. Độc giả khi ấy vẫn đang chờ đợi thơ Nguyễn Lương Ngọc
hiển lộ thêm, độc sáng hơn.
Bài viết này của tôi
nhằm đánh giá và tưởng nhớ một tài năng sáng tạo với tinh thần tiên phong (avant-garde) đã ra đi trong đa chiều
những bàn luận, tranh cãi của người đọc về giá trị đích thực cũng như còn mơ hồ
và về những khái niệm đổi mới, cách tân thi pháp.
Cũng như một số nhà thơ
khởi nghiệp vào đầu thời kỳ Đổi mới (1986), thơ Nguyễn Lương Ngọc xuất hiện
trong từ trường của thơ hậu chiến. Đây là giai đoạn văn học, đặc biệt là thơ,
gần như chững lại, đông cứng. Những nhà thơ đã thành danh hồi ấy vẫn tiếp tục
sáng tác trong dư âm của cuộc chiến, hân hoan với chiến thắng, hoặc bầy tỏ sự
cô đơn, lạc nhịp giữa cuộc sống đời thường. Một số tác giả trẻ mới xuất hiện
lại chưa đủ nội lực và uy tín để chinh phục người đọc. Thơ Nguyễn Lương Ngọc,
được trình hiện trong bối cảnh như vậy, đã thể hiện bút pháp tài hoa, mang định
mệnh lớn ngay từ những bài thơ đầu tiên công bố trong tập “Từ
nước”.
“Ngắm mặt sông mà tỏ lòng
sông
Vuốt tóc lòng tay gặp vầng trán
Ấm, mát, một phần mùa đông.” (Mùa đông).
Và, cũng là một phần mùa đông năm ấy, thơ ông tựa
mầm lá non tơ, run rẩy và bỡ ngỡ trong heo hút gió lạnh:
“Tung tăng có em gái nhỏ
Ô xanh bóng mỏng theo sau” (Em
gái trên đường);
“Câu hát mảnh tơ giữa
miền quánh gió” (Tương quan).
Giai đoạn này, thơ
ông như vết nứt trên bề mặt của tảng băng báo hiệu mùa xuân đang đến gần. Câu
thơ sau đây thể hiện áp lực chuyển vần bên trong con người thơ giàu nội lực và
ý chí bứt phá:
“Để anh đủ sức đập vụn
mình ra mà ghép lại
Nung chảy
mình ra mà tìm lõi
Xé toang mình ra mà kết cấu” (Hội họa lập thể).
Trong tập thơ đầu
tay này của Nguyễn Lương Ngọc, ta thấy được nỗ lực và sức bền của một mầm cây
vừa bật lên trong mùa đông khắc nghiệt, và, cũng thấy được cả sự rướn sức, lấy
đà và hụt hơi trong một số câu thơ, bài thơ của ông. Bài thơ “Vẽ chim”, chẳng hạn, cho thấy tác giả đã
cố triết lý những hiện tượng vốn rất tự nhiên và hồn nhiên trong đời sống:
“Hai chú cháu thi
nhau chấm những dấu ngày càng bé tí. Không hiểu sao, sau hôm đó, chẳng bao giờ
bé còn nhờ tôi vẽ.”
Tập thơ “Ngày
sinh lại” là bước vượt lên trong thi pháp thơ Nguyễn Lương Ngọc, dù
xuất bản cùng năm (1991) với tập thơ “Từ nước”. Đây là giai đoạn phồn
sinh của một thân cây đã trưởng thành, có vóc dáng cao lớn, sum suê và ẩn chứa
nhiều mặt khuất.
Nếu cấu trúc không gian
trong tập thơ “Từ nước” có thể ví với hình học phẳng, thì một số bài thơ
trong tập thơ “Ngày sinh lại” tạo cho ta cảm giác về hình học không gian.
Những hình ảnh trong đó thường đứt đoạn, cắt nhỏ,
biệt lập... để ráp nối lại trong không gian trừu tượng với đa góc nhìn. Nhà thơ
không quan sát đối tượng ở một góc cố định mà đồng thời phân chia thành nhiều
mặt khác nhau, tạo những liên tưởng phức hợp và bất ngờ, cho ta cảm nhận như
đang xem một bức tranh lập thể:
“Tôi xanh da trời
Em tôi thì trắng
Hai anh em tươi
Sương dâng ngang người.” (Tiên cảm).
Câu thơ sau đây trong
bài thơ “Đừng” đã phần nào lý giải cách kết nối không gian trong thơ
Nguyễn Lương Ngọc:
“Trong căn phòng muốn gọn
gàng
Những đối thoại không lời.”
Không gian của căn phòng
muốn gọn gàng đã gợi ý những cuộc đối
thoại vô ngôn cho người đọc, đưa ta trở về với ký ức, những không gian tưởng
tượng. Nếu trong tranh lập thể, các bề mặt của hình họa, mặt phẳng giao nhau
không theo quy tắc phối cảnh, làm cho người xem nhận ra chiều sâu của bức
tranh, thì trong thơ Nguyễn Lương Ngọc, những chuyển động của hình ảnh thường
đứt quãng, đột ngột, gợi nhiều chiều kích của cảm xúc, mở thêm những biên độ
tưởng tượng phong phú và mới lạ.
Trong tập thơ “Ngày
sinh lại”, tác giả không đề ngày tháng sáng tác, nhưng tôi
cho rằng “Đàn giang” là bài
thơ mở đầu cho lối viết mới, riêng biệt của nhà thơ Nguyễn Lương Ngọc.
“Này, đàn giang trắng
Khoảnh khắc
Từ đất rạch lên trời
Từ trời buông xuống đất.”
Ở đây, trong một không
gian đã được cắt nhỏ theo quy ước riêng, trong đó chỉ dung chứa một loại hình
ảnh, cụ thể là đàn giang trắng. Tôi
gọi đó là cách kết nối những hình ảnh “đơn diện” (hàm ý một mặt), khác với cách
kết nối hình ảnh đa diện, hay có thể gọi là kết
nối “lập thể” ở một số bài thơ tiêu biểu trong tập thơ “Lời trong lời” sau này. Câu thơ
tiếp theo:
“Các vị đến cùng chúng ta
Các vị rời bỏ chúng ta”
là cuộc đối thoại khác
hẳn với những đối tượng tham dự vô hình, không phải những sự vật vừa được nhà
thơ đưa ra. Những hình ảnh em, đàn giang, đám mây vàng trong khổ thơ
cuối là những kết nối rời rạc, tách biệt, chưa từng thấy trong tập thơ “Từ
nước”:
“Em đang nói về tương lai
ư
Đàn giang bay mải miết
Chẳng lẽ anh ngắt lời em
Em đang nói về tương lai à
Trên cao, đám mây vàng sững sờ.”
Không gian đa chiều đã kiến
tạo trong thơ Nguyễn Lương Ngọc một thế giới sống động và kỳ ảo, khiến ta như
đang xem một bộ phim 3D, đem lại cảm giác Liêu trai, rờn rợn như trong một kiếp
nào:
“Em dựng dậy trong tôi
một người trinh nữ
Lâu nay nằm ủ rũ...
Sám hối cùng rễ cỏ
Chờ một ngày tái sinh” (Trinh nữ);
“Sinh ra từ nước
Em dịu dàng mỉm cười
ánh sáng từ đâu, ai biết” (Từ
nước).
Nguyễn Lương Ngọc đã
xuất phát từ cách hành ngôn quen thuộc trong thơ truyền thống theo lối ẩn dụ,
ví von của người quan sát thế giới bên ngoài trong tập thơ “Từ
nước”:
“Hạt phấn vàng nhẹ như không
có” (Tương quan);
“Mưa cuồng nộ ngoài kia
chỉ còn như điệp khúc” (Hy
vọng);
“Người lớn như suối
sông, lũ trẻ thì như nước” (Đường
và trẻ).
để đi đến chỗ biến thành
người trực tiếp cảm nhận, hành động. Đây là sự hoàn thiện của quá trình chuyển hóa
từ cái tôi quan sát thành cái tôi chiêm nghiệm khi hình ảnh và chuyển động của
thế giới bên ngoài đồng nhất với thế giới nội tâm:
“Nhà thơ cúi đầu
Môi dầy lụi lửa
Bỏ đi
Những bó cơ tan rữa” (Nhà thơ);
“Em mỉm cười từ đâu
đá Bay-on chao chát
Đăm đắm nhìn từ đâu
Sương Tây Hồ ngột ngạt” (Lời hát).
Xác lập cái tôi chiêm nghiệm và thiết lập không gian thơ là sự chuyển biến quan trọng của thơ
cách tân sau 1986, mà thơ Nguyễn
Lương Ngọc là một ví dụ. Đó là sự khác biệt căn bản so với thế hệ thơ trước,
khi nhiều nhà thơ thường quan sát sự vật và góc nhìn từ bên ngoài. Xin dẫn thơ Xuân Diệu:
“Không gian như có
dây tơ
Bước đi sẽ đứt, động hờ sẽ tiêu” (Chiều).
Và thơ Huy Cận:
“Những ngôi sao cũng lần
lượt hòa tan
Làm thành rạng đông như màu lơ thoảng nhẹ” (Một ngày lên).
Đến thơ Nguyễn Lương Ngọc đã khác: cái tôi
quan sát và đối tượng được mô tả đã hòa nhập làm một. Câu thơ sau đây cho thấy,
ngọn gió đã thổi lên điệu hồn của nhà thơ khiến gió không còn là vô tri nữa:
“Tôi đã rón rén từng
bước, nín thở
Mong giữ được một cơ thể biết bay
Nhưng chỉ gặp chút nỗi niềm ngọn gió
Mát mát đầu ngón tay” (Tìm
gặp).
Nhận thức và linh cảm
được bản chất và chuyển động của vạn vật, nhà thơ đã tri nhận được tính nhất
thể của thế giới, vũ trụ:
“Cái trước ở trên đầu giờ
chìm vào trong ngực
Chỉ một
Tất cả chúng ta chỉ một” (Chỉ
một).
“Ngày
sinh lại” đã được nhà thơ Nguyễn Lương Ngọc thi
triển đúng với tinh thần tên gọi tập thơ này. Đó là sự khai sáng, tiên cảm một
thế giới thơ đang hồi sinh với dáng vẻ non tơ và thơ ngây:
“Nhưng sợi tơ đã tan trong
cổ họng chim và tiếng hót như tơ cuốn mọi người vào thế giới thanh âm
Nhưng vầng trăng đẫm nước đã rơi xuống
đáy sông khô và làm đầy nó bằng
cơ thể mềm mại của mình” (Cảm
nhận).
Thế giới ấy đã hồi sinh,
sinh lại cho trần thế những vẻ đẹp hiển linh và bí ẩn:
“Anh tới khi nào tôi không
được biết
Bí mật chuyến bay cánh giấu đi rồi
Còn lại màng tơ đẫm nắng
Và dòng kiến ngược xuôi” (Tìm gặp).
Cả mặt đất và khoảng
không trong câu thơ trên vừa chuyển động, vừa khép cánh đậu xuống. Nhà thơ đã
bất ngờ đưa ta đến một bến đỗ trừu tượng, nhà ga của những chuyến bay của vạn
vật. Mọi người đang chuyển động, cả những ai đọc đoạn thơ này cũng ngỡ như vừa khép cánh đậu xuống sau chuyến bay bí ẩn
của riêng mình, để rồi lại bình tĩnh sống, bình tĩnh chiêm nghiệm khi biết rằng
“Bí mật chuyến bay cánh giấu đi rồi”.
Thi pháp Nguyễn Lương
Ngọc trong hai tập thơ đầu, “Từ nước” và “Ngày sinh lại”, là
con đường đổi mới từ kết cấu hình ảnh đơn tuyến đến đa tuyến, từ đơn
điệu đến phức điệu, từ hiển ngôn đến linh ẩn, vô ngôn…
Nếu lấy “Mùa đông”, bài thơ đầu tiên trong tập
thơ “Từ nước” làm nơi khởi đầu góc mở, thì càng về sau, góc mở ấy
càng rộng, cũng như ánh sáng của thi pháp truyền thống càng lan rộng, nhòa đi
trong không gian mới mẻ và đa cực.
Nhưng đến tập thơ “Lời
trong lời”, tôi thấy có sự phân tán trong cách lập tứ, ở một số bài
cho thấy, tác giả có nhiều cung bậc cảm xúc, thậm chí đôi lúc còn hời hợt, mờ
nhạt. Một số bài trong tập thơ thứ ba này vẫn tiếp tục nằm trong góc mở của thi
pháp cách tân như, “Hòa thanh”, “Gọi hạc”, “Đồng
hồ vĩnh cửu”, “Liên bút từ sen”... Những bài thơ
này mang đặc trưng cách viết phức điệu, phối bè của Nguyễn Lương Ngọc.
Bài thơ “Gọi
hạc” trở lại cách lập tứ gần giống bài “Đàn giang”. Những
hình ảnh đơn diện chuyển động trong những mặt cắt lập thể. Nhưng ranh giới giữa
những mặt cắt ấy trong “Gọi hạc” được đặt biệt lập, tách
rời nhau hơn:
“Con cắt trắng
xếp cánh
khi gặp con khướu vàng”.
Có thể ví khổ thơ trên như
một trong bốn bức của bộ tranh tứ bình, nó được treo bên cạnh ba bức kia:
“Con khướu vàng
khép mỏ
khi gặp con hạc đỏ”.
Và bức tiếp theo của bộ tứ
bình đó:
“Con hạc đỏ
nức nở
nhìn
con hạc trắng”.
Khổ kết bắt đầu bằng
tiếng gọi hạc của nhà thơ:
“Hạc trắng! Hạc trắng!”
Đó là tín hiệu của nhạc
trưởng cho bản hòa tấu bắt đầu:
“những con đã sinh ra thì
đã chết
những con chưa chết thì chưa sinh ra”.
Đây là hai câu thơ tài
hoa, mang vẻ đẹp linh ẩn trong thơ Nguyễn Lương Ngọc. Ta như nghe được tiếng
những sinh linh từ hai cõi âm dương đang chuyển động qua bức màn vô minh, nghe
được những cánh hạc đập vào khoảng không rộng mở xao xác và hiu quạnh. Nghe và
cảm được những âm thanh hòa quyện và cả những nốt nhạc lẻ loi, đơn độc trong
đó. Nhưng chúng ta khó có thể tách bạch được từng thanh âm trong đàn hạc đang
chuyển động kia. Cách hòa âm của câu thơ trên đem cho người nghe cảm giác một
chút vui xen lẫn nỗi buồn, niềm hy vọng vừa được nhen lên trong sự cô lạnh, sự
tự tin trong an phận, cam chịu...
Bài thơ “Đồng
hồ vĩnh cửu” cho thấy, nhà thơ quan sát đời sống hiện hữu từ hệ quy
chiếu khác, ngắm nhìn và thấy được ý nghĩa cùng vẻ đẹp của đời sống nơi trần
thế. Đây là bài thơ văn xuôi có lối kể chậm rãi và trầm tĩnh, ngôn ngữ thơ gần
với cách nói đời thường:
“Trên tường, trước mặt,
có cái đồng hồ ba kim cứ giật giật chạy”.
Nhưng ta thấy bất ngờ
khi nhà thơ nhìn chiếc đồng hồ một cách chăm chú, không rời mắt, và liền nhấc xuống. Tác giả đã cho xuất
hiện trong bài thơ một cửa sổ tròn,
đưa ta vào một thế giới khác lạ vừa được tạo ra:
“Mấy ngôi sao đang tắm, bầy đom đóm, một đứa trẻ giữa bể đang
kêu cứu”.
Đến đây, Nguyễn Lương Ngọc đã chuyển dịch mọi
hình ảnh trong không gian riêng biệt của ông, cho chúng tự do bay lượn trong
cơn mộng mị của thi nhân:
“cửa đã mở cho thấy
cửa. Ta không đóng lại nữa”.
Mọi hình ảnh trong bài
thơ như được chuyển động trên ranh giới giữa thực và ảo, minh triết và vô minh,
dẫn ta đến những tình huống kỳ lạ, bất ngờ:
“Mèo dạy tôi cách
rơi, và đứng lên, một bông sen nở”.
Hình ảnh bông hoa sen bật dậy trong câu thơ,
mà trước đấy nhà thơ không báo trước hay phát đi tín hiệu nào có liên quan, tỏa
ra ánh sáng huyền nhiệm. Như cánh cửa bất ngờ mở ra trước mắt ta, tựa lối vào
một cảnh giới tuyệt lành, thanh tịnh, an lạc. Câu thơ gợi liên tưởng tới một con
người đơn độc, chìm đắm dưới lớp bùn của đời sống trần tục, bỗng có lúc vụt trỗi
lên như bông sen nở. Bông hoa sen tiếp tục được hiện ra trong đoạn 3 của bài
thơ giữa tiết điệu phối bè tự nhiên và rất đỗi khiêm nhường. Đây là một trong
những đoạn thơ văn xuôi hay nhất của Nguyễn Lương Ngọc. Ông đẩy nhanh tiết tấu
câu thơ, khiến những hình ảnh xuất hiện thoáng chốc rồi nhường chỗ cho những
hình ảnh kế tiếp:
“Hoa sen
nở không lựa chọn. Giữa đầm, hoa nở. Ven bờ, hoa nở, hái về nhà cắm vào lọ, hoa
nở, và mang bày giữa người thích mặc cả, hoa vẫn nở. Là hoa thì nở, dẫu biết nở
là chết”.
Nguyễn Lương Ngọc thường
nhắc tới hoa sen, loài hoa mang vẻ đẹp thanh khiết. Hoa sen còn biểu trưng cho
giá trị đạo đức, sự thánh thiện, biểu trưng cho trí tuệ siêu việt, thể hiện
niềm khao khát giác ngộ của con người. Trong thơ Nguyễn Lương Ngọc, hoa sen
thường xuất hiện trong tinh thần cứu rỗi, thanh tẩy những tục lụy dơ bẩn trong
đời sống thế tục:
“Một gương sen trong vòng
tay của nhụy vàng...
Những nhụy sen dặn dò ta, giọng đượm hy vọng” (Liên
bút từ sen).
Những lúc tĩnh lặng,
chợt thấy dư âm sen vọng về trong thơ
Nguyễn Lương Ngọc:
“Thi nhân một nòi huyễn
ảnh
Dư âm sen trắng nở người” (Dư
âm).
Kế tiếp, ta bắt gặp một câu thơ lạ, hay đến
thảng thốt:
“Tôi
thỉnh một tiếng chuông, kêu một tiếng chuông”.
Tiếng chuông báo hiệu thời khắc của sự đốn
ngộ, nhập định, được giải thoát đã đến. Xin mượn lời của Thượng toạ Thích Thông
Phương: “Đây là phá tan cái thấy còn kẹt
trên thứ lớp, vượt qua giáo nghĩa phân biệt, ngộ thẳng tự tâm”. Sau tiếng
chuông huyền diệu ấy, hình ảnh sư nữ
như chính nhà thơ hóa thân, hiện ra trên nền nửa sáng nửa tối, ngập ngừng giữa
không gian thanh tĩnh và nuối tiếc những khát vọng thế tục:
“Bên
chùa, sư nữ thở dài, người tỉnh dậy tụng kinh, lần tràng hạt, nghĩ thế nào lại
thôi. Nàng nằm, đầu nhớ tóc lênh láng quanh
gối. Tóc là gì?”
Câu hỏi Tóc là gì đã biến nhà thơ thành cái tôi chiêm
nghiệm, ngơ ngẩn nhìn lại cuộc trở về nguồn an lạc giải thoát, cuộc hoán chuyển
từ chốn trần gian vừa xẩy ra.
Song bên cạnh một số bài
thơ trong tập thơ “Lời trong lời” hội tụ tài năng và
lộ trình cách tân thi pháp của nhà thơ Nguyễn Lương Ngọc, ta cũng gặp khá nhiều
bài thơ chưa giàu ý tưởng, khá hời hợt và mờ nhạt cảm xúc. Có cả những bài như
ông cố tình buông lỏng dây cương cho ngựa quay về đường cũ, có thể điểm tên như: “Nhịp nhàng”, “Vào hạ”, “Một vòng Hà Nội”, “Quanh
quẩn”, “Dịu dàng ở nguồn suối”, “Tiếng yêu”, “Trong tinh mơ Cam Ranh”, “Thao
thức cùng Phan Thiết”, “Sóng lăn tăn
bình minh”... Đọc những
bài thơ này, tôi liên tưởng nhà thơ giống như một phi công, khi đã lấy được độ
cao cho máy bay thì ông cài hệ thống điều khiển tự động. Có lúc ngỡ như ông còn
ngồi uống cà phê, lan man nghĩ ngợi, lơ là không chú ý xem đường bay có gặp
nguy hiểm hay không.
Dù vậy, khi xếp những tập thơ
của Nguyễn Lương Ngọc cạnh nhau, “Từ nước” – “Ngày sinh lại” – “Lời trong lời”, tôi nhận ra những cột
mốc của một hành trình, một lý tưởng thi ca xuyên suốt: sáng tạo chính là sự
lột xác, hoài thai, sự tái sinh...
Phần 4 “Trong sổ tay của vợ” ở tuyển tập “Nguyễn Lương Ngọc, Thơ và Người” là vĩ thanh của ba tập thơ trên.
Cuộc
chết là một váng vất
thường trực trong thơ Nguyễn Lương Ngọc. Lần
theo lộ trình thơ Nguyễn Lương
Ngọc, ta bắt gặp ông nhiều lần nhắc đến cái chết, như là điểm nút của những
vòng tuần hoàn, như cửa sông nơi những đợt thủy triều lên xuống. Cái chết với
ông không phải nỗi sợ hãi, chỉ là điểm dừng trong quy luật vận động bất tận của
vạn vật, để từ đó bắt đầu sinh lại
trong những chu trình khác:
“Ai đi cùng tôi, được cứu
vớt
Ai đi cùng ta, được chết
Em yêu, hãy hôn” (Cứu vớt).
Ông quan sát điểm nút ấy
với thái độ bình thản pha chút lạnh lùng và hài hước:
“Ai bắt anh chăm chút cái
chết ngày mai
từ gói kẹo cho con hôm nay” (Viết
cho mình).
Đôi khi ông phân thân
thành kẻ khác, nhìn lại đời sống trần gian với thái độ tiếc nuối da diết:
“Hôn lên đôi môi hồng của
thần chết
và nghe nàng dấm dứt khóc
ta chẳng đến được nhau
trên môi anh còn giọt nước mắt của trẻ” (Viết
cho mình).
Hoặc như kẻ mộng du giữa
đôi bờ ảo và thực, sinh sôi và hủy diệt:
“Em người trong tranh
không sống không chết
hình như giống anh
cơn cơn váng vất” (Giao cảm).
Ông cảm được cuộc chết là chu trình tất yếu của cuộc
sống; nó đến với thái độ thanh thản và thậm chí rất yên bình trong Lời hát của ông:
“Cuộc sống lạnh lẽo sao
Cuộc chết ấm áp sao”.
Và đây là bài thơ, gồm
hai câu, được Nguyễn Lương Ngọc viết trong
trạng thái xuất thần về cuộc hóa thân kỳ vĩ của mình. Ông đã vĩnh biệt chúng
ta, nhưng sự nghiệp còn mãi với xứ sở này:
“mai ngày về với Cửu Long
chảy hoài rồi nước cũng trong như người” (Thu
Bồn).
“Ở lại”, một trong
những bài thơ ở Phần 4 “Trong sổ tay của vợ” thuộc tuyển
tập “Nguyễn Lương Ngọc, Thơ và Người”, đã phát những tia sáng mãnh
liệt cuối cùng trước lúc nhà thơ giã biệt thế gian. Nỗi khát khao được sống,
được hiến dâng tài năng và phẩm hạnh trong ông lúc này vô cùng cháy bỏng, khắc
khoải khôn cùng:
“Muốn ở lại cùng mặt trời
Mỗi con người
Phải tỏa sáng”.
Nhưng bóng tối của đời
sống phía bên kia đã dìm ông quá sâu; hơi lạnh của nó đã tràn vào khoảng cách
những câu thơ của ông. Đoạn thơ sau đây cho thấy bàn tay của ông như đã buông
khỏi người thân, hơi thở ông không còn hơi ấm, và, ông đã cách chúng ta một
khoảng cách khá xa:
“Muốn ở lại cùng em
Bài thơ của anh
phải cách nhau
một cơn gió
lạnh”.
Hơn hai thập niên trước
đây, thơ Nguyễn Lương Ngọc đã xuất hiện trong đời sống văn học của chúng ta tựa
“Những mầm hy vọng lên nhiều”. Giờ
đây ta có thể thong thả chiêm ngưỡng thế giới thơ riêng biệt và độc đáo ấy của
ông, tựa những hạt mầm hôm nào đã vươn thành cây xanh to lớn. Để thấy nhà thơ
chính là con chim lấy cát làm trời xanh,
là sự sống hát lời lửa nước. Qua bài
thơ “Áo xanh”, tôi liên tưởng thơ
Nguyễn Lương Ngọc lúc mới xuất hiện tựa một
trứng tròn thở lẻ giữa đảo xa kia,
đèn biển tắt rồi. Nhưng trứng tròn
ấy đã nở thành đàn đàn chim én cùng vạn vật làm nên những mùa xuân sau này.
Thời gian đã đi qua và đủ để lắng lại những giá trị đích thực. Thơ Nguyễn Lương
Ngọc mãi còn đó một dấu mốc quan trọng trong lộ trình cách tân thơ Việt hiện
nay và mai sau.
1/2014
Nhà thơ Nguyễn
Lương Ngọc (bên trái)
Nguồn ảnh và chú thích của
nhà văn Tạ Duy Anh trên Facebook:
“Gặp lại Nguyễn Lương Ngọc tại thủy điện Hòa
Bình”