Bàn tay đính đầy trăng (phê bình) - Mai Văn Phấn

Bàn tay đính đầy trăng

 

 

TS Đinh Trần Phương. (Ảnh: Việt Dũng)

Nhà thơ Đinh Trần Phương

 

 

Mai Văn Phấn

 

Con nhện bỏ đi

con bướm cứ ngủ mãi

tay em đính đầy trăng

Đinh Trần Phương

 

Mỗi tập thơ tôi thường chọn ra vài từ khóa, đơn giản là sở thích, để có thể viết đôi điều, hoặc làm vốn cho những tình huống nào đó về sau. Năm 2017, khi đọc tập thơ “Cánh trăng” (NXB Hội Nhà văn, 2014) của Đinh Trần Phương, tôi đã tìm được từ khóa cho bài viết “Nơi tụ hội ánh sáng". Và giờ đây, tôi chọn tiêu đề “Bàn tay đính đầy trăng” cho bài viết về tập thơ thứ hai của anh, “Giấc mơ của bàn tay”, do Nhà xuất bản Văn học vừa ấn hành đầu năm 2021 này.

 

Hành trình thơ Đinh Trần Phương, từ khi ánh sáng bắt đầu “tụ hội”, đã ra qua chặng đường dài để đến với “Giấc mơ của bàn tay”, một giấc miên mộng đính đầy trăng. Ánh trăng quy tụ để đính vào tay em, là một thi ảnh chói lọi, khiến ta khép đôi mắt mộng để tưởng ra cái mảnh gương trong ngời ngợi đậu trên lòng bàn tay ngà ngọc ấy, giữa đôi bờ thực-ảo có con bướm đang ngủ quên trong ánh sáng mơ màng…

 

Trong lời mở đầu tập thơ “Giấc mơ của bàn tay”, Đinh Trần Phương đã giãi bày đôi điều về con đường đưa anh đến với thơ. Năm hai mươi tuổi Phương phát tâm đi tìm Phật tính. Rồi đến những năm du học tại Pháp, anh tình cờ đọc được một bài thơ haiku của nhà thơ Naitō Jōsō[1]. Từ ấy, ánh sáng thi ca trong anh bắt đầu khơi lộ. Anh nhận ra toàn bộ nhiệt tâm Phật Pháp của mình được gói gọn trong bài thơ của Naitō Jōsō. Dõi theo thứ tự từng bài thơ trong tập, tôi cảm nhận từng bước chân Đinh Trần Phương đang men theo 12 ánh sáng vô lượng của Phật A Di Đà, những mong chuyển hóa cõi Ta Bà uế trược thành cõi Tịnh Độ trang nghiêm. Vậy đến bao giờ Phật tử Đinh Trần Phương mới tới được siêu nhật nguyệt quang, thấy được ánh sáng vi diệu của Đức Phật? Câu hỏi ấy có lẽ trước hết dành cho người đọc thơ anh, hãy tự lắng nghe tâm mình, biết mình đang ở đâu, sẽ đi tới đâu, và lặng lẽ quan sát từng bước chuyển trong người thơ này.

 

“Cửa sổ buồng đêm

tiếng chim hót vào

dải mờ ánh sáng.”

 

Tôi đọc bài thơ trên theo hướng giác ngộ. Cửa sổ buồng đêm phải chăng chính là lối vào cõi Ta Bà, nơi khởi đầu các mối tương duyên, tương hữu giữa vạn vật. Trong cõi tạm u mê, vô thường ấy bất ngờ xuất hiện tiếng chim. Chữ hót vào tác giả dụng rất thần tình, biến âm thanh của tiếng chim thành dòng nước cam lồ, một biểu trưng của lòng từ bi được chứa đựng trong chiếc bình thanh tịnh. Dòng nước trong mát, thơm ngọt ấy được hứng từ những giọt sương lắng đọng trong vũ trụ tưới lên dải sáng mờ hắt vào buồng đêm. Tôi coi bài thơ là bức tranh về sự thức tỉnh, dấy khởi lòng từ bi, thấu triệt lẽ thật trên cõi đời.

 

Vẻ đẹp con người, vạn hữu, của thiên nhiên và vũ trụ liên tục thăng hoa trong “Giấc mơ của bàn tay”. Vẻ đẹp ấy xuất hiện trong những bài thơ ngắn, rất ngắn, mang đến cho người đọc cảm giác như ngồi trên chiếc xe đang chạy với vận tốc lớn, thấy lớp lớp cảnh vật vụt hiện rồi vội trôi lại phía sau. Tất nhiên, nếu bạn muốn chiêm ngưỡng một hình ảnh bất kỳ, có thể “dừng xe”, tĩnh tại, sẽ thấy được hồ quang, ánh xạ từ những vưu vật ấy.

 

“Cây thông trong mưa

con chim nhỏ tới trú

một thoáng, rồi bay đi.”

 

Tôi hình dung nếu mình đang trên xe vội nhìn, sẽ thoáng thấy trên cây thông ướt át kia có con chim vừa vụt bay đi. Hình ảnh ấy dễ làm người đọc liên tưởng tới những bông hoa lay động trước cơn gió mạnh, rồi nép vào nhau, rạp xuống. Nhưng khi tắt gió, tựa như xe đã dừng, tôi lại thấy cây thông và con chim kia chuyển hướng, thay đổi hình dạng. Chúng là hai nhân quả, hai luật quy hồi hiển hiện trước mắt tôi. Bài thơ phô bày cái sân ga đời sống với những sinh linh đến và dời đi sang tận kiếp sau.

 

Có thể nói, ánh sáng giác ngộ Phật tính trong tập thơ thứ hai này của Đinh Trần Phương hiển lộ rõ nét hơn tập thơ đầu tay của anh. Khi chiều kích không-thời-gian trong thơ được mở rộng, người đọc thấy được sự đa dạng của sắc màu ánh sáng trong thơ anh hơn; đặc biệt, phân biệt được nơi khởi nguồn từng luồng sáng từ những vùng trực giác, linh cảm.  

 

“Treo ngược trên cây

rơi xuống chú nhện

đêm pháo hoa.”

 

Đây là bài thơ tiêu biểu cho lối tư duy trực giác. Chú nhện rơi xuống từ trên cây trong đêm pháo hoa là chuyển động vật lý tự nhiên không sắp đặt, một kiểu rơi tự do. Sự dịch chuyển trong bài thơ đã mở ra vùng không gian linh giác. Tác giả như hóa thân vào chú nhện treo ngược trên cây đợi đến thời điểm có pháo hoa mới rơi. Như vậy, nhà thơ đã cho chú nhện, một sinh vật bé nhỏ hiểu được “sứ mệnh cao cả” của mình là rơi xuống trong đêm pháo hoa. Và ngược lại, pháo hoa đã đợi lệnh của chú nhện mới chính thức khai mở đêm hội. Ở đây khái niệm ý tượng đã phát triển thành ý cảnh. Nhà thơ đến gần với sự đốn ngộ, một loại trực giác tức thì, thấu triệt lung linh, khó nắm bắt; là sự phát triển phần thiêng của con người, một trạng thái xuất thần trong sáng tạo.

 

“Có một niềm vui

khi đêm tắt đèn

trong lòng con gián.”

 

Bài thơ trên mở ra một cảnh giới khác được trực giác mách bảo trong không gian tĩnh lặng, không thêm một sắc màu xuất hiện, cũng như không một chuyển động nào xảy ra nếu ta quan sát bằng mắt thường. Nhưng thông qua trực giác của nhà thơ, niềm vui hiện ra tựa như sương khói, như nguồn nước được dồn nén trong lòng con gián. Niềm vui ấy thật lạ lùng, tôi cảm nhận như chúng được cô đặc rồi trương nở trong một thể tích rất hẹp. Qua đây cho thấy sự khác nhau giữa tư duy trực giác và tư duy phân tích, giữa đốn ngộ và tiệm ngộ và các chiều kích của tưởng tượng, cảm xúc.

 

“Bóng người ngư phủ

một mặt trời buồn

vớt trong mắt cá.”

 

Bài thơ cho thấy sức khơi gợi, sức mạnh của trực giác để ta nhìn thấy một hiện thực khác nằm ở phía sau, phía bên kia hiện thực ta có thể quan sát. Tác giả đặt chữ bóng ở đầu bài thơ biến cả thế giới thực tại trở nên huyền hoặc, hư ảo. Nhờ ánh sáng của linh cảm mà mọi vật trong bài thơ hiện ra công bằng, tương duyên lẫn nhau. Tôi cảm nhận như kích cỡ của chúng cũng bằng nhau nữa… Ánh sáng ấy bắt nguồn từ tri thức tương quan và sự tích lũy phong phú mới khởi phát được nhãn giới đặc biệt nơi người viết như vậy. Nếu mượn cách nói của Osho[2] thì bài thơ trên được sinh ra từ trực giác siêu linh trong trạng thái tiệm ngộ. Tôi không dùng khái niệm đốn ngộ bởi sự chuyển dịch, chuyển hóa trong bài thơ diễn ra từng bước chậm.

 

“Đưa tang

từ tiếng khóc

mọc lên tiếng khóc”;

 

“Xe gạch đầy

người kéo bộ

ngược chiều thu”;

 

“Mấy con chim sẻ nâu

đậu trên những cành thông

quả rụng đầy”…

 

Ở những bài thơ mang tính trực giác thường xuất hiện một hình ảnh “khởi duyên” nhưng không giữ vai trò chủ đạo. Những hình ảnh, chú nhện, bóng người ngư phủ, bầy sẻ nâu, tiếng khóc, xe gạch xuất hiện trong phần đầu bài thơ chỉ làm phông nền, là cánh cửa mở ra những thế giới hư huyền sau đó. Ta dễ dàng nhận thấy từ những “nhân vật” khởi sự này đến chủ đích của mỗi bài thơ là một khoảng cách. Khoảng cách ấy có thể coi như trọn vẹn một lương duyên, một hành trình, một lẽ sống… Chuyển động ấy cho thấy những mối tương quan duyên sinh Nhân-Quả. Ở những bài thơ đến từ vùng trực giác, ngoài ý nghĩa bất biến của cái đẹp, nó luôn có sức cuốn hút, mời gọi người đọc kiến tạo cho mình một đời sống an lạc, thanh bình.

 

“Văng vẳng kèn tang

đoàn người lầm lũi

đi vào trong mơ”;

 

“Một con thuyền che giấu

sự rỗng không

lơ đãng của dòng sông”;

 

“Đêm tĩnh lặng

sau đám tang

đâu mất chiếc dùi trống”…

 

Chuỗi hình ảnh chủ đạo trong những bài thơ trên đa số nằm ở câu thơ đầu, cá biệt trong câu thứ hai. Mỗi bài thơ thường xuất hiện duy nhất một hình ảnh gây bất ngờ để đi đến kết cục. Những hình ảnh trong mơ, lơ đãng của dòng sông, đêm, mất chiếc dùi trống… đã đưa ta đến không gian vô tận của giấc mơ, nơi vô thủy vô chung, tạo nên những hình bóng mong manh, vương vấn.

 

"Nỗi buồn của chiếc lá khô

tôi mở xem

ánh trăng"

 

Đó là bài thơ trong tập đầu tay “Cánh trăng” của Đinh Trần Phương. Tôi muốn bạn yêu thơ cùng đọc lại bài thơ này để thấy “hiện thân” ánh sáng trong thơ anh đã lớn lên, trưởng thành trong tập thơ vừa xuất bản. Nếu ánh sáng trong tập thơ đầu là những câu chuyện nhỏ có khả năng dẫn đường, thì ánh sáng trong “Giấc mơ của bàn tay” tự nó đã vẽ một lộ trình cho tác giả, những đích tới chân trời.

 

Trong cuốn “Giấc mơ của bàn tay”, ngoài phần thơ, tác giả còn công bố những bài nghiên cứu, tiểu luận bàn về những mối tương quan giữa thơ haiku và hội họa, haiku và Phật tính, haiku và cái đẹp,… Phần này hé lộ cho ta rằng tác giả cuốn sách đã có được hệ thống kiến thức sâu rộng về văn hóa Nhật Bản, đặc biệt về thơ haiku và tầm ảnh hưởng của nó tới thi ca ở nhiều quốc gia trên thế giới.

 

Trước khi khép lại bài viết, tôi xin trích lời tâm sự của Đinh Trần Phương in trong phần đầu cuốn sách. Tâm sự này phần nào cho thấy tâm thế, quan điểm thẩm mỹ về thơ haiku không tiêu đề của anh: “Mỗi bài thơ là một khai ngộ nhỏ, là tình yêu và là sự trân trọng của tôi với đời sống. Làm một bài thơ haiku là nắm bắt khoảnh khắc của thực tại, theo nghĩa rộng nhất của từ này. Một khoảnh khắc được nhìn ra, được sáng tạo, và được thuần khiết hóa. Khoảnh khắc màu nhiệm ấy vừa đi qua vừa ở lại, lưu giữ trong màn sương quên lãng của thời gian. Tôi hình dung về nó như một khoảnh khắc thiền…”.

 

Nhà thơ Đinh Trần Phương sinh năm 1981, tiến sĩ Vật lý tại Pháp, hiện là giáo viên Vật lý trường THPT chuyên Hà Nội – Amsterdam. Ngoài hai tập thơ đã công bố, Đinh Trần Phương đã xuất bản hai cuốn sách do anh dịch: tiểu thuyết “Tuyết” của nhà văn Maxence Fermine (NXB Văn học, 2008), và “Nghệ thuật kịch Nō” của tác giả Zeami Motokiyo (NXB Thế giới, 2018).

 

Tôi chưa một lần đàm đạo cùng Đinh Trần Phương, chỉ thoáng thấy anh từ xa tại Trung tâm Văn hóa Pháp - L’Espace tại 24 Tràng Tiền, Hoàn Kiếm, Hà Nội vào mùa hè 2018. Nhưng hai tập thơ “Cánh trăng”, “Giấc mơ của bàn tay” cùng hai cuốn sách dịch đã cho tôi hình dung được chân dung anh – một nhà thơ giàu sức sáng tạo và trong suốt. Đó chính là tài năng và tư chất cần có của một thi sĩ để anh có thể đi tới cùng giấc mơ về Cái đẹp của mình. Tôi trân quý một nghệ sĩ trí thức, thi sĩ Đinh Trần Phương – người đang mơ giấc mộng “Bàn tay đính đầy trăng”.

 

5/6/2021


________________

[1] 

Naitō Jōsō (1662 – 1704): nhà thơ haiku Nhật Bản thời Genroku (1688 – 1704, được coi là thời vàng kim của thời kỳ Edo); ông là một trong những đệ tử quan trọng của Matsuo Bashō – nhà thơ haiku lớn nhất của Nhật Bản.

[2] Osho hay còn được gọi là Rajneesh  (1931 – 1990): nhà thần bí người Ấn Độ.

 

 

 






 

 

 

BÀI KHÁC
1 2 3 

image advertisement
image advertisement
image advertisement




























Thiết kế bởi VNPT | Quản trị