Ngõ nhà non lại màu rêu... (phê bình) - Mai Văn Phấn
Ngõ nhà non lại màu rêu…
(Đọc tập thơ "Quê" của Đỗ Trọng Khơi, Nxb Quân Đội Nhân Dân, 2013)
Nhà thơ Đỗ Trọng Khơi
Mai Văn Phấn
“… vườn nhà chim ngỏ đủ điều ngây ngơ” (Tựa). Khiêm cung và cẩn trọng,
minh tuệ nhưng bay bổng, tiếng chim lạ ấy cất lên, không lẫn với chiu chít
những giọng hót khác trong muôn thuở vườn nhà.
Thơ lục bát viết hay
quả thực khó, chú tâm, khôn hoạt quá dễ rơi vào sạch sẽ, thậm chí láu cá, khôn
vặt…, nhưng buông thả, hờ hững lại hay lẫn vào nhạt suông, sáo rỗng… Vậy mà nhà
thơ Đỗ Trọng Khơi vẫn cầm lấy cây sào,
cái quạt… đi trên sợi dây mảnh căng giữa hai đầu “lục” và “bát” từ xửa xưa.
Đỗ Trọng Khơi đã khởi cuộc hành trình dưới trời rộng, cố sao tránh được cái
bóng của những đại thụ lục bát như Nguyễn Du, Nguyễn Bính, Bùi
Giáng…, hay những cây đa cây đề cùng thời như Đồng Đức Bốn, Nguyễn Duy…, mà lại
không sa chân vào nhàm chán, tầm thường... Nhìn Đỗ Trọng Khơi đi trên sợi dây lục bát mỏng manh
kia, chắc ai cũng có lúc thót tim, song đến lúc này phải tán thưởng sự điệu nghệ
của ông; những bước đi "nhuộm
mờ mặt đất tiếng con chim chiều" (Thời
gian), trong ánh sáng mơ hồ mà trinh bạch của "nắng đựng trong
chiếc áo lờ mờ sương" (Chiều), hay theo gót chân mẹ phủ ngập
lối ngõ với "gậy tre mẹ
chống bềnh bồng ngõ quê" (Ngõ quê)…
Thơ ông có lúc bảng lảng, mơ hồ mà tinh tế như một bức tranh lụa. Hình ảnh vầng
trăng trong câu thơ sau hiện ra mờ ảo dưới nét bút thanh thoát, tài hoa của
ông:
"mảnh trăng mỏng mảnh xanh gầy
phần treo đầu ngõ,
phần bay cuối làng" (Nét trăng thu);
"Giọng chim vẽ một nẻo sương
dải trăng thắp một nét
buồn tinh mơ" (Góc ngày thu).
Thường khi ông giữ
cho mình một tâm thế hướng nội lặng lẽ, tuy cô đơn, nhưng luôn tự tin đến được
đích:
"Bây giờ
dắt gió lông nhông
gió ơi, đáy của
mênh mông chỗ nào?" (Ở thế gian).
Hay như muốn săn
đuổi đến tận cùng sự mông lung, mơ hồ:
"Đêm qua bóng ngả đầy người
người thì xóa bóng
về nơi tuyệt cùng" (Bóng);
"Bầu trời còn gọi khoảng không
trong không có khoảng rỗng không tuyệt vời" (Thì tin).
Ông cũng là người giàu chữ nghĩa, thỉnh thoảng lại bất ngờ chơi
chữ theo kiểu dân gian trong những câu thơ trau chuốt::
"trong bao la một ta ngồi
một ta chơi với một người là ta" (Ta về cõi ta),
hay cũng tự nhiên ngắt dòng, tạo hiệu ứng đột ngột như cách “thay đổi hơi
thở” trong thủ pháp “hiệu ứng cánh bướm” của thơ Tân hình thức:
"Một ngôi đất lạ, nữa và
hai ngôi đất lạ, nữa và… ba ngôi" (Tôi là).
Lại có câu thơ nhuốm màu sắc Siêu thực: gặp
ngày ở đỉnh đọn cây rực vàng (Mai đông). Chữ ngây thơ trong bài “Nhớ
thương“ làm người đọc bất ngờ, thú vị:
"nhớ người của chốn lòng sâu
trời thì thẳm đến phai màu ngây thơ".
Cách nói của cao dao, dân ca cũng thường thấy trong thơ Đỗ Trọng Khơi:
"học cây dù rách hay lành
đùm ôm lấy cội lấy cành mà tươi" (Làng);
"Buồn thì ra ngó mái đình
mưa rây bao hạt trắng tinh cả trời" (Buồn không mưa).
Từ bài thơ “Ánh trăng” (1988) từng vỡ ra trên đường làng, đến
nay, bằng nghị lực và tài năng của mình, ông đã đi những chặng đường dài, dành
cho độc giả một tiếng thơ riêng biệt. Ông đã vượt lên hoàn cảnh bệnh tật đặc
biệt của mình để tự tích lũy kiến thức và luôn đau đáu chiêm nghiệm, như con
trai ngậm ngọc lặng lẽ, lớn dần thành báu vật trong cái ao quê lặng lẽ, quen
thuộc: "Ta về ở ẩn trong
ta" (Ta về cõi ta); "cầm thu chói rực bàn tay cội
cành" (Cầm thu)…
Từ lâu tôi đã coi nhà thơ Đỗ Trọng Khơi là tấm gương về nghị lực, tinh thần
ham học và tình yêu cháy bỏng dành cho thơ ca. Những lúc bị phân tâm, mất lòng
tin, hay bi quan chán nản… tôi thường nghĩ đến ông, tưởng tượng hoàn cảnh ông,
và đặc biệt, nhớ những câu thơ riêng biệt của ông nữa:
"ngày rơi mê mệt mê tơi
ùn ùn khí đất thổi trời xanh xao" (Chơi đêm);
"Hữu tình thoắt lại vô tình
ta thành chim đất nín thinh giữa trời" (Cảm xúc thời gian).
Hay,
"Tôi nào đã biết gỉ gi
người đi, chân cũng theo đi phố phường" (Đêm).
Đôi chân trong câu thơ ấy trước hết là tưởng tượng của ông về những chuyến
du hành trên mặt đất, là khát vọng lớn lao nhất mà Đỗ Trọng Khơi chỉ có thể
thực hiện được trong thơ ca. Nhiều bài thơ, câu thơ ông viết ra để tự biết cái
“gỉ gi” làm ta ứa nước mắt và càng cảm phục nghị lực và tài năng của ông hơn:
"từ lâu tôi thả tôi trôi mịt mùng (Là về trăm năm);
Đêm qua bóng ngả đầy người
người thì xóa bóng về nơi tuyệt cùng" (Bóng);
"heo may ngậm mảnh trăng vàng rong chơi…
nắng nồng theo lối hồn ve lìa ngàn" (Thu sang);
"Tôi tự chèo lái tôi đi
đi cho hết cõi không gì mới thôi" (Cõi không gì).
Điều tôi cảm phục nhất khi đọc thơ Đỗ Trọng Khơi là ít thấy cái bi phẫn nảy
sinh từ hoàn cảnh thực tại, mà ngược lại, luôn thấy rõ cái ung dung, tự tại của
kẻ sĩ Bắc Hà với vẻ trầm tĩnh, tự tin.
Điều đó đã làm nên phong vị và cốt cách thơ Đỗ Trọng Khơi:
"Tôi hư ảnh, tôi xương da
tôi khăn áo mỏng như là trần gian
cầm câu yêu xuống Địa đàng
hỏi thăm, đây lối về làng tôi chăng?" (Địa đàng vườn ấy…);
"Tôi đi về phía xa xăm
Vâng, xa xa lắm, mù tăm tuyệt mù" (Giờ đây).
Những bài thơ tình thường hiếm thấy trong thơ Đỗ Trọng Khơi, nhưng tôi chợt
gặp được cảm xúc mạnh mẽ, tinh khiết, trinh nguyên trong khổ thơ này:
"Lòng tôi đã lắm phong rêu
sao thu còn cũng nói điều non xanh
sao chiều chẳng đổ ánh nhanh
sao người mắt cứ long lanh thế người" (Phố chiều thu).
Những câu thơ giàu nội lực và khát vọng đưa ông đến với "tóc dài ai thả để sương theo
về". Tôi mừng cho ông đã gặp được tóc
dài ai thả.
Sống, chịu đựng và vươn dậy viết như Đỗ Trọng Khơi càng minh chứng cho thấy
hoàn cảnh, hay cao hơn là số phận bản thân cũng chỉ là duyên do để thi sĩ sáng
tạo chứ không phải là phương tiện hay mục đích để giải thoát. Đỗ Trọng Khơi vốn
am tường kiến thức văn hóa Đông Tây, tích lũy có hệ thống và phong phú các tác
phẩm văn chương kim cổ, đặc biệt hiểu sâu về triết học cổ đại Trung Hoa. Nhưng
khi sáng tạo, ông thường đẩy tất cả những kiến thức và sự từng trải ấy về phía
sau, và diễn đạt những nội dung hiện đại, gây sửng sốt bằng thứ thi pháp cổ
kính trang nghiêm:
"Lòng trời như li như lau
lòng người thoắt đã bợn màu ái ân" (Trong gió may lộng).
Cách ông quan sát và diễn giải những chuyển động xung quanh rất tinh tế:
"Không gian y một cảnh chùa
ngày lên thật mỏng, chuông khua lại rền" (Góc ngày thu);
"Những bức tường đứng thẳng hàng
và ăn nhẹ nhẹ nhàng nhàng bóng nhau" (Những bức tường).
Đó là những câu thơ rất lạ lùng và vi diệu của ông. Những bức tường – vật vô tri vô giác, nhưng biết đứng thẳng hàng, và chúng ăn nhẹ nhẹ nhàng nhàng (mượn cách nói dân gian) những cái bóng nhau, đã làm
cho lý trí của người đọc như lui về phía sau, nhường chỗ cho một khoảng không
vô thức, trong suốt, đẫm màu tâm linh chế ngự. Những bức tường ở đây bỗng trở thành xương cốt gắn bó những thân
phận người, che chắn những phận đời trong cái làng quê bé nhỏ mà giàu lòng nhân
ái của ông.
Những câu thơ, như "không
em Hà Nội riêng tôi…/ liễu trăm tuổi chợt tập yêu/ lấy xanh tơ bẫy tiếng kêu
sâm cầm" (Một chiều Hà Nội) ;
hay "Vóc thành phố nhỏ và
hiền/ và duyên dáng và dịu êm như là" (Một
thu) là những ý thơ hiện đại, tân kỳ, cũng hiếm gặp trong tập thơ Đỗ
Trọng Khơi.
“Quê”, chính là nơi Đỗ Trọng Khơi đã "Vai mang đầy ánh trăng mà
không thấy nặng/ Mắt chứa đầy ánh trăng mà không thấy chói". “Ánh trăng” cùng với “Hy vọng”
là hai bài thơ của ông từng đoạt giải Nhì cuộc thi thơ tuần báo Văn nghệ (1989
- 1990). “Ánh trăng” đã gây ngỡ ngàng
cho người đọc từ lúc ấy tới tận bây giờ, bởi cảm xúc tươi ròng cùng vẻ đẹp tinh
khôi của nó. Sau đó tôi cũng như nhiều bạn đọc chờ đợi nhà thơ Đỗ Trọng Khơi
tiếp tục phát triển theo hướng này, và đã có lúc chúng tôi sốt ruột vì bước đi ngập ngừng, như cố tình tập cổ của ông…
Đỗ Trọng Khơi đã thử sức trong nhiều thể loại thơ, nhưng có lẽ lục
bát là thành công hơn cả,
hợp với ông hơn cả. Thơ lục bát của Đỗ Trọng Khơi ít cái ngơ ngẩn, chân quê của
Nguyễn Bính, cái siêu hình, ma quái của Bùi Giáng, cái giọng du ca, biến ảo
ngôn ngữ đời thường của Đồng Đức Bốn… Thơ Đỗ Trọng Khơi nhói sáng nét đẹp của
nỗi đau thân phận với cách thể hiện ung dung, tự tại, nhiều câu thơ vi diệu ngỡ
như mang nhịp sinh học, hơi thở của ông.
Trong không gian "ngõ
nhà non lại màu rêu/ vườn nhà chim ngỏ đủ điều ngây ngơ" (Tựa),
ta thấy “Quê” là đích đến của nhà thơ
Đỗ Trọng Khơi. Ông ra đi từ quê, đi
xa…, thật xa… rồi lại trở về quê làm hồi
sinh nét đẹp cổ xưa của thôn làng Việt vùng châu thổ sông Hồng, để chúng trở
nên huyền hoặc hơn xưa, mới lạ hơn xưa. Đó chính là nơi ông xuất phát, vượt lên
khó khăn, số phận để trở thành nhà thơ tài hoa có bản sắc riêng.
10/2013