Lan man về thơ hay
Tranh của Rafal Olbinski, Ba Lan
Mai Văn Phấn
Vẫn còn đó những tranh
luận xoay quanh ý niệm thế nào là thơ, nên chuyện thơ hay sẽ càng mông lung hơn
khi lý giải về nó. Nhận diện, đề xuất tiêu chí thơ hay thành ra bao hàm ít
nhiều tính chủ quan mà người viết bài này khó tránh khỏi.
Vậy thế nào là thơ hay?
Có lẽ đó là điểm sáng đầu tiên nhưng chỉ là một phần nằm trong tổng thể giá trị
thẩm mỹ của thơ. “Qua Đèo Ngang” của
Bà Huyện Thanh Quan, một nữ sĩ thời cận đại, là bài thơ hay nhưng không thể so
sánh với giá trị bất tử của bài thơ “Nam
quốc sơn hà”, một tuyên ngôn lồng lộng chính khí.
Ý niệm thơ hay chắc chắn
thay đổi theo quan niệm thẩm mỹ Đông-Tây, vùng miền, thời đại, theo khuynh
hướng phê bình và còn tùy cách tiếp cận của mỗi người, trong từng thời điểm.
Thơ Thanh Tâm Tuyền, Trần Dần, Quang Dũng… một thời bị nhìn nhận phiến lệch là
vậy.
Tiêu chí thơ hay còn cần
được lý giải trên nhiều khía cạnh như ngôn ngữ, tư tưởng, thần thái của bài
thơ... Đi tìm một bài thơ hay toàn diện, hay trong mọi thời đại, hay với mọi
người là chuyện mò kim đáy biển. Câu thơ
“Mắt em là một dòng sông
Thuyền anh bơi lội trong dòng mắt
em” (Đôi mắt)
của thi sĩ Lưu Trọng Lư
đến hôm nay có lẽ đã hơi mờ nhạt. Ngược lại, câu thơ của Thanh Tâm Tuyền
“tôi buồn khóc như buồn
nôn
ngoài phố
nắng thủy tinh
tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ
thanh tâm tuyền” (Phục sinh)
trong thời đại mới, vẫn bị xem là khó hiểu dù
chỉ phơi bày một lát cắt hiện thực dang dở, đang mở, và còn chờ đón sự chắp nối
của người đọc.
Nhà thơ Lê Đạt quan niệm “Thơ hay bao giờ cũng có tiếng thầm thì: đó
là tiếng gọi nhau của chữ” (Thầm thì);
Và, ông gọi thơ là “cõi chữ”: “Anh bảo
đảm không làm phiền em ở cõi đời, không dám hứa không làm phiền em cõi chữ, ở
đó hai ta đều bất lực” (Ngó lời).
Trong khi thi sĩ Octavio Paz
lại đặt ra hai giả thiết, thơ là “sự sở
hữu những sức mạnh và quyền năng lạ kỳ” hay đơn thuần chỉ là “một kỹ năng riêng lẻ để kết hợp từ ngữ, hình
ảnh, âm thanh, hình thức”.
Vậy thơ là “cõi hồn” hay “cõi chữ”? Xin để người đọc phân định bằng cảm nhận và
kiến thức của họ.
Với tôi, bài thơ hay là có thể mở ra cho
chính tác giả và người đọc một không gian mới lạ với sự ngạc nhiên, run rẩy
trong tâm thức. Không gian ấy nằm trong khoảng lặng giữa các câu chữ, trong và
cả phía sau văn bản thơ. Bài thơ “Linh
hồn những con bò” của Nguyễn Quang Thiều là một ví dụ. Năm khổ thơ trong
bài thơ là năm chặng đường khép mở hiện hữu và hủy diệt. Nếu cánh đồng cuối
cùng, bóng tối, tiếng rống, những chiếc ách, dàn kèn đồng thuộc về hôm qua,
hiện thể… thì đám mây trở thành một biểu tượng của phục sinh miên viễn nhuốm
màu sắc tâm linh:
“Ra đi từ đêm
Và bây giờ, những con bò bóng tối, đã đến
Cánh đồng cuối cùng
…
Giờ chỉ còn những đám mây
phiên bản của đàn bò
bay trên cánh đồng
của những con bò khác”.
Tôi quan niệm, mỗi nhà thơ là một thế giới,
và mỗi bài thơ là một khái niệm về thơ. Hai ví dụ sau đây cho thấy mỗi tác giả
có cách tạo dựng hình ảnh trong thế giới thơ của mình. Hình ảnh người tình
trong bài thơ “Hai mươi bài thơ tình và
một bản tuyệt vọng ca” của Pablo Neruda
hiện ra với nét khắc họa thô mộc vạm vỡ, chính xác, bạo liệt:
“Thân mình em yêu, cặp đồi trắng và cặp đùi
cũng trắng,
trông em tựa đất hiền trong dáng vẻ dâng mời ngoan ngoãn.
Cơ thể nông phu cục súc của ta đào xới em cật lực
và khiến một thằng con vọt ra từ thẳm sâu lòng mẹ đất” (Takya
Đỗ dịch).
Nhưng, thơ Yves Bonnefoy
lại đi theo hướng khác với đa tầng cảm xúc và liên tiếp mở ra những cánh cửa
bất ngờ:
“Tôi không thể thiếu em tôi không dám?
Liều không có em trên những bậc thang đi xuống
Về sau tôi nhận ra đó là một giấc mơ khác
Mặt đất này với những con đường rơi vào cõi chết” (Huỳnh
Phan Anh dịch).
Thơ hay như thế không hạn chế ở đề tài. Thơ
ngâm vịnh của Lý Bạch,
thơ nhân sinh của Đỗ Phủ,
thơ thiền của Không Lộ
còn đó những tuyệt tác. Rồi thơ trữ tình của Alexander Pushkin,
Walt Whitman…
rung lên bao cung bậc. Nếu "Tang khúc
cho Ignacio" của García Lorca
gửi lại nhân gian cảm thức rụng rời bi tráng về cái chết:
"Ignacio lên từng bậc thang
Cõng trên lưng cái chết.
Tìm kiếm bình minh
Mà bình minh không có
Tìm bóng đích thực mình
Mà giấc mơ đánh lạc
Tìm thân mình khoẻ đẹp
Mà thấy máu mở tuôn." (Hoàng Hưng dịch),
thì “Tây Tiến” của Quang Dũng cũng dựng lên
tượng đài chiến sĩ vô danh khi
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.
bên cạnh đó, bài thơ “Cáo tật thị chúng”
của thiền sư Mãn Giác lại nuôi trồng niềm tin tâm linh:
“Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua sân trước một nhành mai.” (Ngô
Tất Tố dịch)
Thơ hay cũng không quy định bởi trường phái,
thể loại, cũ và mới, truyền thống hay hiện đại. Thơ của Thôi Hiệu,
Vương Duy
đời Đường…, thơ lục bát của Bùi Giáng, Nguyễn Bính, Đồng Đức Bốn…, thơ Tượng
trưng từ Stephane Mallarmé
đến Paul Valéry…,
thơ Ngôn ngữ của Paul Hoover,
thơ Hậu hiện đại của Allen Ginsberg…
đều mang lại những chiêm ngẫm hiện thực lớn lao. Một thái độ ứng xử mới với thơ
là ý thức được rằng các yếu tố hình thức đều dung chứa ý nghĩa, và, bất kỳ một
hình thức cấu trúc nào cũng có khả năng biểu đạt tư tưởng hoặc nội dung thích
hợp.
Khái niệm thơ hay cũng không nhất thiết lệ
thuộc vào vần điệu, tiết tấu, phải dễ thuộc, dễ nhớ, vì thơ ngoài để thuộc
lòng, còn để đọc và cảm nhận thông qua thị giác. Thơ vần điệu với vùng thẩm mĩ
quen thuộc thường được người đọc nhớ nằm lòng chưa hẳn là hay và ngược lại. Đây
là những câu thơ nhớ nhà trong bài “Hoàng
Hạc Lâu” của Thôi Hiệu:
“Chiều tối, quê nhà đâu chẳng thấy
Trên sông khói sóng gợi buồn ai?”.
(Trần Trọng San dịch)
Hoặc:
“Giang hồ ta chỉ giang hồ vặt
Nghe tiếng cơm sôi cũng nhớ nhà” (Phạm Hữu Quang).
Câu thơ trên của Phạm Hữu Quang sẽ dễ nhớ hơn
vì nhịp đọc và không gian thơ quen thuộc. Hai câu kết trong bài Hoàng Hạc Lâu
cũng nhịp 2-2-3 nhưng gợi ra một không gian thơ mênh mang diệu vợi hơn. Từ đây,
ta cũng nhận ra sự khác biệt về cái hay của thơ truyền thống và hiện đại. Thơ
hiện đại với mạch chảy là những hình ảnh đứt đoạn, nhảy cóc, mở ra những trường
liên tưởng xa nhất định là khó nhớ nhưng như thế chưa hẳn là không hay. Cách
tiếp nhận và cảm thụ của người đọc sẽ quyết định bài thơ là hay hoặc dở.
Có nhiều khía cạnh khác nhau về thơ hay. Thơ
Phạm Thiên Thư hay trong thần thái của phiêu lãng đạo và đời. Thơ Trần Dần ngổn
ngang trong việc bày biện giữa cái tôi nhân sinh và vũ trụ hằng hà. Thơ Charles Beaudelaire
đẹp trong những những suy tư triết học, trong khi Alphonse de Lamartine
lại cực kỳ lãng mạn. Nếu Nguyễn Khuyến trầm tư với màu thu thì Hồ Xuân Hương
lại cười cợt nhân gian. Khi Bà Huyện Thanh Quan hoài cổ để đeo sầu thì Bùi
Giáng lại bỏ mặc nhân thế trong cõi ta bà mộng mị. Mỗi người một vẻ hay trong
phong thái. Trên bình diện ngôn ngữ cũng tương tự. Thơ Đường đẹp trang trọng
với những ước lệ ngôn từ thì thơ hậu hiện đại tung tẩy những con chữ đời
thường. Các nhà thơ Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Thanh Tâm Tuyền, Bùi Giáng…
mỗi người sở hữu một thứ ngôn ngữ riêng nhưng đều rất… thơ.
Thơ hay có thể đến tình cờ với một số thi sĩ
trong khoảnh khắc đốn ngộ, xuất thần... Nhưng đa số các nhà thơ có được thơ hay
qua quá trình tu luyện, tích lũy kiến thức phong phú, một hành trình bới tìm
“vỉa quặng” của tâm hồn, đợi đến khi chín muồi, cảm xúc sẽ chợt nhòa chợt hiện,
và nhà thơ viết với tất cả choáng ngợp của mình. Sự choáng ngợp mê man của tác
giả rồi sẽ lan truyền đến người đọc. Tưởng như, nhà thơ gặp bài thơ hay giống
như người tọa thiền quán tưởng trong quả chuông ánh sáng, hoặc cảm giác như kẻ
thoát xác; tưởng như nhà thơ lúc đó là kẻ lạc vào rừng rậm, đang choáng ngợp
với những thân đại thụ cao ngất vòm lá kín trời, còn những cây dương xỉ, con
sóc, con sâu nhỏ bé, hoặc cả những vỉa ngầm… dành lại cho người đọc hình dung.
Đúng như Octavio Paz đã viết “Thơ ca là
khoảnh khắc ngừng lại của thời gian”.
Tầm vóc của thi sĩ chính là khả năng khái
quát, biến những hình ảnh quen thuộc thành biểu tượng thi ca, tiên tri cả thời
đại đang đến. Hình ảnh con ngựa trong đêm tối trong bài thơ “Con ngựa đen” của Joseph Brodsky
viết năm 1961, là bóng dáng thế kỷ chúng ta đang sống. Nhà thơ đã nhìn thấy
những hiểm họa đến với loài người, như chiến tranh, bệnh tật hủy diệt hàng
loạt, xung đột sắc tộc, tôn giáo… Bài thơ là một tiên báo:
“Tại sao nó hít thở không khí đen
trong tiếng xào xạc của cành lá bị giẫm?
Tại sao trong mắt nó chập chờn ánh sáng tối mù?
chờ đợi trong chúng ta đứng dậy một kỵ sĩ” (Hoàng
Ngọc Biên dịch).
Thơ hay, cuối cùng còn tùy khả năng đồng sáng
tạo của người đọc. Phần lớn người đọc đều bị động trước các tác phẩm thơ, tức
chờ bài thơ đi vào lối mòn thẩm mỹ của mình để đồng cảm đồng điệu mà ít có ý
thức vươn tới giá trị của thi ca. Nếu có thơ tinh tuyển thì cũng cần có cách
đọc tinh lọc. Đó là cách đọc dám từ bỏ thói quen cũ, sẵn sàng đến với những giá
trị mới một cách bình tĩnh, công bằng; lắng nghe thơ chuyển động, dĩ nhiên quan
trọng, nhưng lắng nghe chính mình càng quan trọng hơn.
Tôi nhớ đã đọc ở đâu đó, Pablo Neruda từng
than thở rằng thơ đang dần bị thu hẹp vào vương quốc của riêng nó, rằng bây giờ
chỉ có các nhà thơ đọc nhau. Nhưng tôi tin, thơ vẫn cứ hay nếu ta tiếp nhận
những giá trị mới bằng một tâm thế mới.
10/2013
______________________________
Octavio
Paz (1914 – 1998): nhà thơ, nhà văn, nhà ngoại giao México; ông đoạt giải
thưởng văn chương danh giá như: Giải thưởng Jerusalem (1977), Giải Miguel de
Cervantes năm 1981, Giải Văn chương Quốc tế Neustadt 1982, Giải Nobel Văn
chương năm 1990.
Nguyên tác:
“Mạc vị xuân tàn hoa lạc
tận
Ðình tiền tạc dạ nhất chi mai.”