Silence (3) - Tĩnh lặng (3). Mai Văn Phấn. Explicated by Dr. Ramesh Chandra Mukhopadhyaya - chú giải. Phạm Minh Đăng dịch sang tiếng Việt
Silence (3) by Mai Văn Phấn
Explicated by Dr. Ramesh Chandra Mukhopadhyaya
Ts. Ramesh Chandra Mukhopadhyaya
Silence
3.
A stream of light is surrounding
Me
At the foot of the altar tower
Drawing near to my father’s face
(He was 3 years gone)
Drawing near to my grandmother’s face
(She was 27 years gone)
My father has recovered from hand trembles
My grandmother no longer stoops
Each of them teaches me how to remember
A way to forget
I am transparent
As I leave
Holding in my hand
A flower.
(Translated from Vietnamese by Nhat-Lang Le & Susan Blanshard)
Explication:
In the
earlier section the poet meditated on the stream of life in the mountain that
flows steadily into a lake without making a noise. And when the poet sees into
the transparent lake a stream of light surrounds the poet. Stream implies a
flow. And when a stream of light surrounds the poet it is a kinaesthetic
imagery which pertains to a sense of bodily motion. In other words the poet
feels that his whole body including emotions and senses is a movement. The
poet’s body is transformed at the foot of the
altar tower. Earlier we saw a stream in a moment falling in a transparent lake without any
sound. The lake seems to reflect the course of the stream or the flow of life
as the foot of altar tower. May be we have come down from the mountain and when
we reach death we understand it is the foot of an altar indescribable sublime
and life is a continuous prayer. Once we reach the lake at the bottom we become
aware of the altar tower and at once the life which is apparently full of
sorrow becomes a stream of light flowing down from the indescribable
inscrutable infinitude which can be understood only when we see into death. And
we begin to worship life seated at the feet of the altar tower. Life is an
altar tower or a butsudan that could reach us to the unnameable. This puts in
our mind the challenge to go back in time and space defying the laws of
thermodynamics. Once we go back in time and space we meet our father grand mother and mother.
Each of them teaches us how to forget. Keats sought to forget the fever and
fret of life. First he thought of alcohol which might help him to escape from
the groans of the existence. Later he felt that he could accompany the
nightingale which has never known in its leafy world what we know here in the
mundane world of ours. So he follows the bird on the viewless wings of poesy
and fades into the dim forest far off from the sphere of sorrow. But after a
time the word forlorn flashes upon his mind and it shatters the poets reverie.
Thus neither alcohol nor fancy can transport us from the groans of existence.
One must see life as a whole at the point of death and learn that a rebirth
could be there. Vibrant with a fresh lease of life if one could go against time
and the laws of thermodynamics one meets one’s forefathers. Whatever Mai Văn
Phấn writes he writes from experience. His father suffered from alzheimers
disease and died. But the poet meets him now that he sees life steadily and as
a whole. He finds his father sans any physical ailment. The poet meeting his
father reminds one of Aeneas meeting his father in Virgil. In fact meeting one’s dead fathers is a recurrent
motif in heroic poetry And this is also a fragment of heroic poetry as it were.
Here the poet meets his father and mother and grandfather. Our minds and senses
are always drawn outward to the world of delusion. The hero of the poet Mai Văn
Phấn forces them to look inward and thereby to go against the flow- tide of
time through meditation. According to Buddhist cosmology there are thirty one
planes of existence. Among them six planes of existence belong to kamaloka.Human
realm is only one of them.So our parents may have left the human realm. But
ordinarily they very much exist in some other realm, may be of the kama loka.
And the poet meets his deceased ancestors in other planes of kamaloka. And lo!
father does not suffer from alzheimers disease any longer and the grandmother
does not stoop any longer. How come this is possible? The theory of Dependent
Origination posits that whatever takes place in the existence is dependent on
numerous causes and conditions and hence whatever takes place in the existence
has no essence. Therefore the very sight of the deceased persons of father and
grandmother free from physical ailments teaches the poet that nothing in
existence has any essence. They teach the poet how could they forget the
sufferings of the world. Once we know that the world in which we suffer and the
sufferings that we experience in the world have no essence and once we know
that they are mere delusions we can get rid of them. This knowledge makes the
poet transparent bereft of the crudities of worldly existence. He transcends
the kamaloka too and exclaims.
As I leave
Holding in my hand
A flower.
The
flower is lotus. Although the poet is born in the world and grown in the world he is no longer soiled
by the world.
Silence (1)
Silence (2)
Ts. Ramesh Chandra Mukhopadhyaya (giữa) cùng các đồng nghiệp Ấn Độ
Tĩnh lặng (3) của Mai Văn Phấn
TS. Ramesh Chandra
Mukhopadhyaya chú giải
Phạm Minh Đăng dịch sang tiếng Việt
Tĩnh lặng
3.
Luồng sáng đang
vây
Tôi
Dưới chân ngọn
tháp
Ghé sát mặt bố
tôi
(Người mất đã 3
năm)
Ghé sát bà nội
tôi
(Người mất 27
năm về trước)
Bố tôi đã khỏi
bệnh run tay
Bà nội không còn
đi còng
Mỗi người dạy
tôi cách nhớ
Một cách quên
Tôi trong suốt
Ra đi
Trong tay cầm
một bông hoa.
Chú
giải:
Trong phần trước, nhà thơ
thiền định về dòng suối cuộc đời từ núi đổ bình lặng xuống hồ không gây tiếng
động. Và khi nhà thơ nhìn vào mặt hồ trong suốt, một dòng ánh sáng phủ tràn nhà
thơ. Dòng suối là dòng chảy. Và khi một dòng ánh sáng phủ tràn nhà thơ, đó là
một hình ảnh cơ thể, mang cảm giác về sự chuyển động cơ thể. Nói khác đi, nhà
thơ cảm thấy toàn bộ cơ thể của mình bao gồm cảm xúc và ý thức là một lối
chuyển động. Cơ thể nhà thơ được chuyển hóa dưới chân tháp. Trước đó ta thấy
một dòng suối trong khoảnh khắc chảy vào hồ trong suốt không một tiếng động. Hồ
đó như thể phản chiếu lộ trình dòng suối hoặc dòng chảy cuộc đời là về chân
ngọn tháp. Có thể chúng ta đi xuống từ ngọn núi đó và khi tiến dần về cái chết,
chúng ta hiểu rằng chân ngọn tháp ngợp lời không thể diễn tả nổi và cuộc sống
là một lời nguyện cầu không dứt. Khi chúng ta tiến đến đáy hồ, chúng ta thức
tỉnh về ngọn tháp và ngay lúc đó, cuộc sống vốn dĩ tràn ngập nỗi buồn trở thành
dòng ánh sáng chảy xuống từ cõi vô hạn bất khả hiểu và bất khả diễn giải, chỉ
có thể cảm thức khi chúng ta nhìn vào cái chết. Và chúng ta bắt đầu cuộc sống
nghi lễ khi ngồi dưới chân ngọn tháp.
Cuộc sống là một tháp thiêng
hoặc một khám thờ dẫn ta về cõi không thể gọi tên. Điều này đưa tâm trí ta vào
một thách thức ngược trở lại thời gian và không gian, cưỡng lại các định luật
của nhiệt động lực học. Khi chúng ta ngược trở lại thời gian và không gian,
chúng ta gặp lại cha, bà và mẹ. Họ dạy chúng ta cách quên. Nhà thơ Keats tìm
cách quên lãng những cơn sốt và nỗi ưu phiền cuộc sống. Ban đầu ông nghĩ rượu
có thể kéo ông khỏi nỗi bi thương của sinh tồn. Rồi sau ông cảm thấy mình có
thể đồng hành loài chim sơn ca ẩn mình trong thế giới xanh lá, [tức loài chim]
không bao giờ biết được những gì ta biết trong thế giới trần tục của mình. Bởi
vậy ông dõi theo loài chim đó trên đôi cánh hút tầm mắt của thơ ca và mờ dần
vào rừng xa mịt mùng lánh xa khối muộn phiền. Nhưng theo thời gian, ngôn từ
chập chờn tuyệt vọng trong tâm trí ông và xóa tan những ảo tưởng của nhà thơ.
Cả rượu lẫn ảo giác / huyễn tưởng không thể kéo chúng ta khỏi nỗi bi thương của
sinh tồn. Con người cần nhìn nhận đời sống như một khối nhất thể từ điểm chết
và nhận ra sự tái sinh có thể ở đó. Rập rờn sống động với một giao kèo sống
tươi mới, con người có thể chống lại thời gian và các định luật nhiệt động lực
học và họ được gặp tổ tiên của mình.
Những gì Mai Văn Phấn viết
đều khởi nguồn từ kinh nghiệm. Cha ông mắc chứng Alzheimer và đã mất. Nhưng nhà
thơ đã gặp cha mình lúc này khi ông có thể thấy cuộc sống vẫn bền bỉ vững vàng
một khối. Ông thấy cha mình đã khỏi bệnh run tay. Cuộc gặp giữa nhà thơ với cha
gợi nhớ tới cuộc gặp giữa Aeneas và cha trong thơ của Virgil. Trên thực tế, gặp
gỡ người cha đã mất là chủ đề quen thuộc trong các hùng ca. Và đây cũng là một
phần của hùng ca như nó đã / đang là. Nơi đây nhà thơ gặp cha mẹ và ông mình.
Tâm trí và giác quan của chúng ta luôn bị kéo tới thế giới của ảo giác. Người
anh hùng của nhà thơ Mai Văn Phấn buộc họ phải nhìn vào trong và do vậy chống
lại ngọn thủy triều của thời gian thông qua thiền định.
Trong vũ trụ học Phật giáo,
có 31 cõi. Trong đó có sáu cõi Dục Giới. Cõi người chỉ là một trong số
đó. Cha mẹ chúng ta có thể đã rời cõi người. Nhưng rồi họ nương ở những cõi
khác, có thể là Dục Giới. Và nhà thơ gặp lại tổ tiên của mình trong các cõi
khác của Dục Giới. Và kìa! Cha đã khỏi bị cơn bệnh run tay hành hạ và bà nội
không còn còng lưng nữa. Điều này có thể ư? Thuyết Duyên Khởi chỉ ra rằng những
gì tồn hiện phụ thuộc vào vô số nguyên nhân và điều kiện nên tất cả những gì
tồn hiện không có thật chất. Vì vậy việc nhìn thấy những người đã khuất, thấy cha
và bà nội đã thoát khỏi bệnh tật thể chất nữa thức tỉnh nhà thơ rằng không có
gì tồn hiện mà có thật chất. Họ cho nhà thơ biết cách họ đã quên các nỗi khổ
trần thế. Một khi ta hiểu rằng thế giới nơi chúng ta đang chịu dày vò và những
chịu đựng chúng ta trải nghiệm ở đây là không thật chất, một khi ta hiểu rằng
đó chỉ là những ảo ảnh thuần tuý, ta có thể dứt bỏ. Nhận thức này khiến nhà thơ
trong suốt bước ra khỏi tồn tại khổ đau. Ông vượt thoát cõi Dục Giới và thốt
lên
Tôi trong suốt
Ra đi
Trong tay cầm một bông
hoa.
Bông hoa ở
đây là hoa sen. Mặc dù nhà thơ sinh ra và lớn lên trong thế giới này, nhưng
ông đã không còn chịu sự ràng buộc của những bụi bặm thế gian.
Tĩnh lặng (1)
Tĩnh lặng (2)
Tranh
của Họa sỹ Phạm Long Quận