Silence (24) - Tĩnh lặng (24). Mai Văn Phấn. Explicated by Dr. Ramesh Chandra Mukhopadhyaya - chú giải. Traduction française Dominique de Miscault – Dịch sang tiếng Pháp. Takya Đỗ dịch sang tiếng Việt
Silence (24) by Mai Văn Phấn
Explicated by Dr. Ramesh Chandra Mukhopadhyaya
Translated into French by Dominique de Miscault
Translated into Vietnamese by Takya Đỗ
Tác phẩm của Dominique de Miscault gửi riêng cho Tĩnh lặng 24
Silence
24
Two objects on the table
A clock
A pebble paperweight
I cannot read a book
Or think through any
subject
My mind is vague
As I stare at each object
a long time
I turn one of them
Adjust the space between
I see a single trail of
light
Between the clock and the
pebble.
(Translated from Vietnamese by Nhat-Lang Le & Susan Blanshard)
Explication
The poet is in front of a
table. A table is a surface where our food is served. It might be spiritual
food as well. A table could be used for writing on it. But further more a table
can bring bizarre things together. This is a simple symbol suggesting that all
things in life are unified and connected. On the table there are two things in
a pebble paperweight and a clock. The clock stands for time. And it is divided
into twelve sections. Do they not stand for the twelve nidanas viz ignorance,
volitions, consciousness, name and form, six sense bases, contact, sensation,
cravingj attachment, becoming and birth ageing decay and death? When the hands
of the clock complete the cycle they return to the initial position only to go
round the cycle once again. Thus the clock moves along a vicious circle over
and over again. The clock reminds us of the repeated births and deaths of a
person. A little away from the clock there is the pebble paperweight. While the
clock stands for time the pebble might stand for space. While clock might stand
for motion the pebble might stand for rest. The poet gazes at the clock for a
long time. He also looks at the pebble for a long time. This is tratak
meditation. Ordinarily there are more than thirty seven trillion cells in human
body. Each cell has its own mind. All these countless minds are concentrated on
an object through gazing at a thing for a long time. The poet has gazed at a
clock. He also gazed at the paperweight. And now his mind is rather inactive. The poet can no longer
read a book. He cannot think. through any subject. His mind is vague. In other
words his mind is thoughtless. The object of yoga is to make the mind
thoughtless. And once the mind is thoughtless there are visions. The poet turns
one of the two objects of the gaze and adjusts the space between them. In other words the poet can now
gaze at both, the clock and the pebble.
Ambiguity is sine qua non with good poetry. And a large corpus of Mai Văn
Phấn’s poetry reminds us of koans. The present poem opens with a koan that puts
time and space separate from one another. Now the single trail of light
connecting the two only tells us that there is a link between time and space,
rest and motion, and so on. Thus everything in the existence is linked with
everything else however different they might look from one another on the surface.
Explication par Dr. Ramesh Chandra Mukhopadhyaya
Traduction française Dominique de Miscault
Photo: Dominique de Miscault
Silence
24
Deux objets sur la table
une horloge
une pierre
Je ne peux plus ni lire
ni penser
Mon esprit est confus
je fixe l’horloge et le presse-papier
J’en détourne un
je règle l'espace entre eux
Rai de lumière
entre l'horloge et la pierre.
Explication du Dr Ramesh Chandra Mukhopadhyaya
Le poète est devant sa
table. Une table est une surface où des repas peuvent être servi. Mais il
pourrait également s'agir de nourriture spirituelle ... Une table est aussi
utilisée pour écrire ou peut rapprocher des objets hétéroclites. C'est un
symbole simple suggérant que tout est relié et connecté. Sur cette table, il y
a deux objets : un presse-papier en pierre et une horloge. L'horloge
représente l'heure, divisée en douze sections, comme les douze nidanas à
savoir : l'ignorance, les volitions, la conscience, le nom et la forme, et
les six bases sensorielles, le contact, la sensation, l'attachement au désir,
le devenir, le vieillissement et la mort ? Lorsque les aiguilles de l'horloge
ont fait le tour du cadran, elles ne reviennent à la position initiale que pour
recommencer un tour. Ainsi, les aiguilles se déplacent en cercle
continuellement : L'horloge telle, les naissances et les décès d'un être.
Près de l'horloge, un presse papier en pierre. Alors que l'horloge représente
le temps, la pierre représente l'espace. Tandis que l'horloge fait défiler le
temps, la pierre est au repos. Le poète fixe longuement l'horloge et la pierre.
C'est le tratak.
Il y a, en principe, plus de trente-sept trillions de cellules dans le corps
humain. Chaque cellule a sa propre conscience. Toutes ces innombrables
consciences sont concentrées et fixées sur un seul objet pendant un long
moment. Le poète regarde l’horloge et fixe aussi le presse-papier, l’esprit
inactif. Le poète n’a plus la capacité de lire un livre, ni de penser, sa
pensée est floue comme irréfléchie. L'objet du yoga est de rendre l'esprit
inconscient. Une fois la pensée inactive, des visions apparaissent. Le regard
du poète déforme l'un des deux objets et ajuste l'espace entre eux. En d'autres
termes, de Mai Van Phan peut maintenant regarder les deux, l'horloge et le
caillou. L'ambiguïté est la condition sine qua non à la poésie. Le grand corpus
Tĩnh lặng évoque les koans. Ce
poème s'ouvre avec un koan qui sépare l'espace et le temps. Un seul rai de
lumière relie, un seul lien entre le temps et l'espace, le repos et le
mouvement, et ainsi de suite. Ainsi, tout dans l'existence est lié à tout le reste,
au détriment des apparences.
Les douze maillons dans le bouddhisme. Nidana est un mot sanskit qui signifie « cause, motivation ou
occasion » selon le contexte. Le mot dérive de ni
(bas, vers) et da (pour lier, dana ). Il apparaît dans le Rigveda (l'hymne 10.114.2), et d'autres
écritures hindoues, où cela signifie « cause primaire ou première cause
associée » ; Dans d'autres contextes tels
que Rigveda 6.32.6, nidana se réfère à une corde ou une bande qui
relie, ou attache une chose à une autre, comme un cheval à un chariot.
Technique
de concentration où le regard est fixé sur un objet spécifique, souvent la
flamme d’une bougie. Mais il peut s’agir également d’un point, un
yantra ou la pleine lune.
Un
kōan ( transcription du japonais : こうあん,
prononciation japonaise on'yomi du terme chinois :
chinois : 公案 ; pinyin :
gōng'àn, littéralement : arrêt
faisant jurisprudence) ou koan est une brève anecdote ou un court
échange entre un maître et son disciple, absurde, énigmatique ou paradoxal, ne
sollicitant pas la logique ordinaire, utilisée dans certaines écoles du
bouddhisme chán (appelé son en
Corée, zen au japon, ou Thiền au Viet
Nam). Un hua tou (terme chinois ; japonais : wato) est
semblable mais ne consiste qu'en une courte phrase, parfois issue d'un kōan
Photo: Dominique de Miscault
Tĩnh lặng (24) của Mai Văn Phấn
Ramesh Chandra Mukhopadhyaya chú giải
Takya Đỗ dịch sang tiếng Việt
24
Hai đồ vật trên bàn
Đồng hồ
Viên sỏi chặn giấy
Tôi không thể đọc sách
Không nghĩ trọn một việc
Đầu óc mông lung
Nhìn rất lâu từng đồ vật
Tôi xoay một trong hai
Đặt lại khoảng cách
Thấy vệt sáng duy nhất
Giữa đồng hồ và viên sỏi.
Chú giải:
Nhà thơ ngồi trước
bàn. Một cái bàn là một bề mặt mà trên đó món ăn của ta được bày ra. Đó cũng có
thể là món ăn tinh thần. Một cái bàn cũng có thể dùng để ngồi viết lách ở đó.
Nhưng một cái bàn cũng có thể tụ hợp những vật kì lạ trên đó. Đây là một biểu
tượng đơn giản ngụ ý rằng tất cả mọi vật trong cuộc sống được hợp nhất và kết
nối với nhau. Trên chiếc bàn đó có hai vật là viên sỏi chặn giấy và chiếc đồng
hồ. Chiếc đồng hồ tượng trưng cho thời gian. Và nó được chia làm 12 vạch. Chẳng
phải những vạch đó tượng trưng cho các duyên khởi [nidana] tức vô minh,
hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử
đó sao? Khi kim đồng hồ quay trọn một vòng, chúng trở lại vị trí ban đầu chỉ để
quay tiếp vòng nữa. Chiếc đồng hồ cứ thế chạy hoài theo cái vòng luẩn quẩn ấy.
Chiếc đồng hồ nhắc nhở chúng ta về cái vòng luân hồi sinh tử của một con người.
Cách chiếc đồng hồ không xa là một viên sỏi chặn giấy. Chiếc đồng hồ tượng
trưng cho thời gian còn viên sỏi chặn giấy có thể tượng trưng cho không gian. Chiếc
đồng hồ có thể tượng trưng cho “động” còn viên sỏi có thể tượng trưng cho
“tĩnh”. Nhà thơ chú mục vào chiếc đồng hồ hồi lâu. Ông cũng chú mục vào viên
sỏi hồi lâu. Đây là phương pháp thiền tratak.
Thông
thường trong cơ thể con người có đến hơn ba mươi bảy tỷ tế bào. Mỗi tế bào đều
có tâm trí riêng. Toàn bộ vô lượng tâm trí này đang tập trung vào một
đồ vật thông qua việc chú mục vào vật đó hồi lâu. Nhà thơ chú mục vào chiếc
đồng hồ. Ông cũng chú mục vào viên sỏi chặn giấy. Và giờ đây đầu óc ông nói
đúng ra là không hoạt động. Nhà thơ không thể đọc sách nữa. Ông không nghĩ trọn
được một việc. Đầu óc ông mông lung. Hay nói cách khác, đầu óc ông chẳng gợn
một ý nghĩ. Mục đích của yoga là làm cho đầu óc không gợn chút nghĩ suy. Và khi
đầu óc không gợn chút nghĩ suy các ảo cảnh sẽ đến. Nhà thơ xoay một trong hai
vật mà ông chú mục vào và chỉnh lại khoảng cách giữa chúng. Nói cách khác, lúc
này nhà thơ có thể chú mục vào cả hai vật, chiếc đồng hồ và viên sỏi chặn giấy.
Sự mơ hồ là điều kiện thiết yếu đối với thi ca. Và cả một thi tập lớn trong thơ
Mai Văn Phấn gợi nhắc cho chúng ta về những phương pháp thiền đốn ngộ [koans]. Bài thơ này khai mở một phương
pháp thiền đốn ngộ đặt thời gian tách biệt khỏi không gian. Mà vệt sáng duy
nhất nối giữa hai vật đó chỉ để cho ta biết rằng có sự kết nối giữa thời gian
và không gian, giữa tĩnh và động, vân vân. Theo cách đó, mọi vật trong hiện tồn
kết nối với mọi vật khác cho dù bề ngoài chúng có dị biệt với nhau đến thế nào chăng
nữa.
Giáo lý Duyên khởi là căn bản của hệ
thống triết học Phật giáo. Đức Phật Thích Ca định nghĩa Duyên khởi: "Do vô minh, có hành sinh; do hành, có thức sinh; do thức, có danh sắc sinh;
do danh sắc, có lục nhập sinh; do lục nhập, có xúc sinh; do xúc, có thọ sinh; do thọ, có ái sinh; do ái, có thủ sinh; do thủ,
có hữu sinh; do hữu, có sinh sinh; do sinh,
có lão tử, sầu, bi, khổ, ưu, não
sinh, hay toàn bộ Khổ uẩn sinh. Đây gọi là Duyên khởi". 12 Duyên khởi gồm:
- Vô minh: Không hiểu rõ Tứ đế gọi là Vô minh. Có thể phát biểu cách khác rằng, không hiểu rõ Duyên khởi, Vô ngã là Vô minh.
- Hành: Gồm có thân hành, khẩu hành và ý hành .
- Thức: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức.
- Danh sắc: Danh gồm xúc, tác ý, thọ, tưởng và tư (có nơi trình bày Danh sắc gồm có Thọ, Tưởng, Hành và Thức uẩn). Sắc là tứ đại và các pháp do tứ đại sinh.
- Lục nhập: Gồm có 6 nội xứ (nhãn căn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý căn) và 6 ngoại xứ (sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp)".
- Xúc: Có 6 xúc: nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc và ý xúc.
- Thọ: Có 6 thọ: thọ do nhãn xúc sinh..., và thọ do ý xúc sinh.
- Ái: Sắc ái, thanh, hương, vị, xúc và pháp ái; hay dục ái, sắc ái, và vô sắc ái.
- Thủ: Có 4 thủ: dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ, ngã luận thủ.
- Hữu: Dục hữu, sắc hữu và vô sắc hữu.
- Sinh: Cái gì thuộc loài chúng sinh bị sinh, xuất sinh, giáng sinh, đản sinh, xuất hiện các uẩn, thành tựu các xứ thì gọi là sinh.
- Lão tử: Cái gì thuộc các loài chúng sinh bị già, yếu, suy nhược, răng rụng, tóc bạc, da nhăn, tuỗi thọ lớn, các căn chín muồi thì gọi là già. Cái gì thuộc các loài chúng sinh bị từ bỏ, hủy hoại, tiêu mất, các uẩn tàn lụn, thân thể vứt bỏ, tử vong thì gọi là chết.
[2] Nguyên văn “tratak meditation”: Trāṭaka (hay tratak – có nghĩa "nhìn” hoặc “chú mục"), là một phương pháp thiền chú mục vào một điểm chẳng hạn như một vật nhỏ, một chấm đen hoặc một ngọn nến đang cháy. Phương pháp này được cho là mang lại năng lượng cho ‘con mắt thứ ba’ (hay ājňā chakra – tạm dịch “luân xa con mắt thứ ba”) và giúp các khả năng tâm linh tăng tiến.
Tĩnh lặng - Silence (1)
Tĩnh lặng - Silence (2)
Tĩnh lặng - Silence (3)
Tĩnh lặng - Silence (4)
Tĩnh lặng - Silence (5)
Tĩnh lặng - Silence (6)
Tĩnh lặng - Silence (7)
Tĩnh lặng - Silence (8)
Tĩnh lặng - Silence (9)
Tĩnh lặng - Silence (10)
Tĩnh lặng - Silence (11)
Tĩnh lặng - Silence (12)
Tĩnh lặng - Silence (13)
Tĩnh lặng - Silence (14)
Tĩnh lặng - Silence (15)
Tĩnh lặng - Silence (16)
Tĩnh lặng - Silence (17)
Tĩnh lặng - Silence (18)
Tĩnh lặng - Silence (19)
Tĩnh lặng - Silence (20)
Tĩnh lặng - Silence (21)
Tĩnh lặng - Silence (22)
Tĩnh lặng - Silence (23)
Ts. Ramesh Chandra Mukhopadhyaya
Dr. Ramesh Chandra Mukhopadhyaya
Address: 6/ 1 Amrita Lal Nath lane P.0. Belur Math Dist Howrah West Bengal India Pin code711202. Date of Birth 11 02 1947. Education M.A [ triple] M Phil Ph D Sutrapitaka tirtha plus degree in homeopathy. He remains a retired teacher of B.B. College, Asansol, India. He has published books in different academic fields including religion, sociology, literature, economics, politics and so on. Most of his books have been written in vernacular i.e. Bengali. Was awarded gold medal by the University of Calcutta for studies in modern Bengali drama.
TS. Ramesh Chandra Mukhopadhyaya
Địa chỉ: 6/ 1 đường Amrita Lal Nath hòm thư Belur Math Dist Howrah Tây Bengal Ấn Độ mã số 711202. Ngày sinh: 11 02 1947. Thạc sĩ văn chương, thạc sĩ triết học, tiến sĩ triết học [bộ ba] cùng với Bằng y học về phép chữa vi lượng đồng cân. Ông còn là một giảng viên đã nghỉ hưu của Trường đại học B.B, Asansol, Ấn Độ. Ông đã có những cuốn sách được xuất bản về nhiều lĩnh vực học thuật bao gồm tôn giáo, xã hội học, văn học, kinh tế, chính trị v.v. Hầu hết sách của ông đã được viết bằng tiếng bản địa là tiếng Bengal. Ông đã được tặng thưởng huy chương vàng của Trường đại học Calcutta về các nghiên cứu nghệ thuật sân khấu Bengal hiện đại.
Nhà thơ - Nghệ sỹ Dominique de Miscault
Poétesse - Artiste Dominique de Miscault
Artiste Plasticienne. Actualités. De plages en pages qui se tournent. C’était hier, de 1967 à 1980, mais aussi avant hier. puis de 1981 à 1992. Et encore de 1992 à 2012 bien au delà des frontières. Aujourd’hui, la plage est blanche sous le bleu du soleil. Ecrire en images, cacher les mots porteurs de souffrance ; on ne raconte pas les pas d’une vie qui commence en 1947. C’est en 1969 que j’ai été invitée à exposer pour la première fois. Depuis j’ai eu l’occasion de « vagabonder » seule ou en groupe en France et dans le monde sûrement près de 300 fois. Les matériaux légers sont mes supports, ceux du voyage et de l’oubli.
www.dominiquedemiscault.fr
www.dominiquedemiscault.com
www.aleksander-lobanov.com
Nhà thơ - Nghệ sỹ Dominique de Miscault
Nghệ sĩ nghệ thuật thị giác đương đại. Từ bãi biển đến trang giấy. Là ngày hôm qua, từ 1967 đến 1980, và trước đó, rồi từ 1981 đến 1992. Và nữa từ 1992 đến 2012 trên tất cả các biên giới. Ngày hôm nay là bãi biển trắng dưới bầu trời xanh. Viết bằng hình ảnh, giấu từ ngữ mang nỗi đau, người ta không kể lại những bước đi trong cuộc đời tính từ năm 1947. Vào năm 1969, lần đầu tiên tôi được mời triển lãm tác phẩm. Kể từ đó, tôi có cơ hội một mình "lang bạt" hoặc theo nhóm ở nước Pháp và khắp nơi trên thế giới, chắc chắn gần 300 lần. Những chất liệu nhẹ là nguồn hỗ trợ tôi, những chất liệu của hành trình và quên lãng.
www.dominiquedemiscault.fr
www.dominiquedemiscault.com
www.aleksander-lobanov.com
Photo: Dominique de Miscault