Nhà phê bình văn học Ngô Hương Giang: “Văn bản văn học không phải là nơi mà nhà phê bình
có thể tìm thấy sự gợi mở, dẫn nhập vào thế giới lý tưởng của tác giả, ngược
lại, nó gợi mở và dẫn nhập anh ta trở về với chính xúc cảm, kinh nghiệm thẩm
mỹ, kinh nghiệm sống trải trong mình, dọn chỗ cho một sự suy niệm, phản tư tự
thân. Vì vậy, văn bản phê bình văn học là văn bản thuần ý niệm của nhà phê
bình, nó được xem như sáng tạo hoàn toàn mới, một thế giới mới được họ dựng lên
trên sự gợi mở, dẫn nhập từ văn bản gốc của nhà văn. Do đó, bất cứ sự đọc nào
cũng là sự sáng tạo, dù cho sự đọc đó bắt đầu bằng một ý thức "cợt
nhả", "trêu đùa" mang tính giải trí, thì cũng xuất phát từ ý
niệm sống trải mà người đọc hồi tưởng thông qua quá trình đọc”
Nhà phê bình văn học Nguyễn Thanh
Tâm: “Phê bình, với tôi là một cuộc hành trình tìm kiếm chính mình thông qua
người khác. Chỉ khi, tôi bắt gặp người khác, những khác biệt mang giá trị, khi
đó tôi mới có thể nhận ra mình trong thế giới mà tôi bị quăng vào. Tác phẩm văn
học là một manh mối, một tình huống, một hiện tượng để những phác đồ người,
những phác thảo giá trị có cơ may được hiện hữu. Cứ như thế, lịch sử, văn
hóa được trầm tích” (in trên bìa 4 sách chuyên luận).
Khủng hoảng, thực tế là
một câu chuyện sang trọng. Phải có cái gì đó rồi mới dẫn đến khủng hoảng. Khủng
hoảng không xảy ra ở những nơi mà bản thân sự vật, hiện tượng chưa đạt đến cấp
độ cao, dồn đẩy, biến động để có thể rơi vào trạng thái khủng hoảng. Nhận định
thơ Việt Nam đang khủng hoảng, bởi vậy cũng là nhận định đầy rộng lượng (không
chỉ của tác giả công trình này) thể hiện thái độ ghi nhận những cái đã có của
thơ Việt sau 1975. Dĩ nhiên, nhận ra bất ổn, kháng cự và khắc phục khủng hoảng
cũng là câu chuyện đồng hành - với những người có đủ tri kiến và cảm niệm để
nhận ra. Mỗi thi sĩ có một cách thức chống khủng hoảng riêng.
Với Mai Văn Phấn, bằng
những gì thơ ca đã trình hiện, kháng cự khủng hoảng thơ bằng cách liên tục vong
thân, phủ định chính mình để kiến tạo hệ hình thẩm mỹ khác. Kháng cự tình trạng
tha hoá, bế tắc bằng sự trở về với căn tính dân tộc. Kháng cự sự hạn hẹp của ý
thức, lý trí bằng phát huy sức mạnh vô thức. Kháng cự sự nông cạn bằng cách mở
rộng, đào sâu vào những tầng vỉa, mạch nguồn của sự sống, thông qua tưởng tượng
và mộng mơ. Kháng cự đơn nghĩa bằng cách sử dụng biểu tượng như là phương thức
tư duy hướng tới sự trùng phức, đa nhiệm và đa nghĩa. Kháng cự sự đơn điệu của
giọng - lời bằng cách kiến tạo nhiều giọng, như là một ý thức về tính đa thanh,
phức điệu của đời sống. Kháng cự sự duy lý cổ điển bằng những hưng cảm lãng
mạn, kháng cự sự dễ dãi của lãng mạn bằng sự kín đáo, sâu thẳm của tượng trưng,
siêu thực. Kháng cự cái chết lâm sàng của thể loại bằng cách thể nghiệm nhiều
thể loại mới. Kháng cự tình trạng hoang mang, hoài nghi, sợ hãi bằng niềm tin
vào con người, sự sống cùng bản sắc văn hoá dân tộc. Kháng cự tạp niệm, ma niệm
của đời sống thế tục bằng chính niệm của tôn giáo/ Đạo. Kháng cự những dung
tục, tầm thường bằng tâm thức linh thiêng, cao cả. Kháng cự tiên kiến, trải
nghiệm bằng sự tái sinh ngây thơ và hồn nhiên. Kháng cự khủng hoảng phê bình,
tiếp nhận bằng cách đặt ra yêu cầu cao hơn đối với sự đọc (anh còn viết phê
bình và tiểu luận thơ ca). Kháng cự khủng hoảng xuất bản bằng cách đặt mình vào
vai trò biên tập, thiết kế, nêu ý tưởng và có những xuất bản phẩm đẹp, hợp thức
ở quy mô thế giới (dĩ nhiên là đề xuất với Nhà xuất bản hoặc các Công ty truyền
thông văn hoá). Kháng cự đại đô thị và sự ngắn ngủi của sự sống, các giá trị
bằng cách từ chối văn minh kỹ trị, trở về với thiên nhiên, hoang sơ và thánh
thiện.
Từ kháng cự khủng hoảng
thơ đến kháng cự khủng hoảng về tư tưởng, hành trình thơ Mai Văn Phấn còn cho
thấy một khát vọng hướng đến tự do sống và sáng tạo. Sự vượt thoát liên tục để
làm mới thơ, để được sống nhiều hơn vừa là thái độ với thơ vừa là thái độ đối
với cuộc đời. Đó cũng có thể xem như một hành vi dấn thân mà một trí thức có
lương tri, lương năng đã tự lựa chọn. Nhiều kháng cự như thế, có lẽ sẽ làm hiện
lên một con người đang gồng mình chống chọi. Nhưng không, ngay cả trạng thái
gồng mình ấy cũng bị phủ định rất nhanh (có lẽ mạnh nhất ở Hôm sau), bởi thi sĩ tỏ ra là người trường hơi, trường sức và
trường vốn. Nền tảng văn hoá sâu dày ở Mai Văn Phấn đã giúp anh có những ứng xử
chủ động trên hành trình vượt thoát liên tục của mình. Một điều quan trọng nữa
là ý thức về thơ trong tư cách là một loại hình nghệ thuật. Thơ phi vụ lợi, nhà
thơ không có sứ mệnh nào khác ngoài sứ mệnh thi ca - Ngôi Lời.
Một sứ mệnh vô hình,
không ràng buộc, nhưng luôn luôn đòi hỏi (sự sáng tạo, giá trị mới) chỉ có thể
duy trì bằng sự tự tri, tự nhiệm của thi sĩ. Xem xét thơ Mai Văn Phấn trong
dòng chảy thơ Việt Nam hiện đại (sau 1975) cũng là một dịp để nhìn lại thơ Việt
(dù còn dang dở, bất toàn), để thấy được những bất ổn, khủng hoảng và những
hình dung về tương lai. Từ trường hợp Mai Văn Phấn, đặt trong bối cảnh bất ổn
và khủng hoảng của thơ Việt Nam đương đại (khủng hoảng như là một tiền đề của
cách mạng - T.S. Kuhn, một khủng hoảng của sự trưởng thành - J.F. Lyotard),
diễn dịch này lại có thể là một bất ổn mong mỏi “phản nghiệm” từ những sự đọc
hiền minh.
N.T.T
Poster buổi ra mắt sách, vào hồi 14g30 - 21/3/2015, tại Villa cà phê thứ 7, số 3A, Ngô Quyền, Hà Nội.