MVP và hành trình thơ... (chuyên luận - XV) - Ngô Hương Giang & Nguyễn Thanh Tâm
Ngô Hương Giang - Nguyễn
Thanh Tâm
Mai
Văn Phấn và hành trình thơ vào cõi khác (XV)

Nhà phê bình văn học
Nguyễn Thanh Tâm
Chương III
THƠ MAI VĂN PHẤN TRONG DÒNG CHẢY
THƠ VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
Nguyễn Thanh Tâm
I. Phác hoạ
thực thể thơ đương đại(1)
Văn học đương đại là một thực thể chưa hoàn thành. Điều đó lý giải cho sự dang dở của bất kỳ mô tả nào.
Mặt khác, khi nhìn về một đối tượng như thơ Việt Nam sau 1975, tính đa dạng,
phong phú của đối tượng, sự nở rộ của sáng tác đã khiến cho cái nhìn mang tính
chủ quan xuất phát từ khả năng bao quát của tác giả(2).
Điểm lại những sáng tác thơ từ đổi mới đến
nay, với những tên tuổi tác giả và tác phẩm như: Nguyễn Đức Mậu (Hoa đỏ nguồn sông - 1987), Nguyễn Duy (Mẹ và em, Đãi cát tìm vàng - 1987, Đường xa - 1989, Quà tặng - 1990, Bụi -
1997), Dư Thị Hoàn (Lối nhỏ - 1988),
Dương Tường (36 bài tình - 1989, in
chung với Lê Đạt; Đàn - thơ ngoài lời
- 2003, Mea culpa và những bài khác -
2005), Hoàng Hưng (Ngựa biển - 1989, Người đi tìm mặt - 1993), Lê Đạt (Bóng chữ - 1994), Nguyễn Trọng Tạo (Sóng thuỷ tinh - 1988, Gửi người không quen - 1989), Phạm Thị
Ngọc Liên (Những vầng trăng chỉ mọc một
mình - 1989, Biển đã mất - 1990),
Xuân Quỳnh (Hoa cỏ may - 1989), Đoàn
Thị Lam Luyến (Lỡ một thì con gái -
1989), Trương Nam Hương (Khúc hát người
xa xứ - 1990), Đặng Đình Hưng (Bến lạ
- 1991, Ô mai - 1993), Phùng Khắc Bắc
(Một chấm xanh - 1991), Nguyễn Quang
Thiều (Ngôi nhà mười bảy tuổi - 1990,
Sự mất ngủ của lửa - 1992, Những người đàn bà gánh nước sông - 1995),
Thanh Thảo (Những khối vuông rubic -
1985, Từ một đến trăm - 1988, 123 - 2007), Dương Kiều Minh (Củi lửa - 1989, Những thời đại thanh xuân - 1991, Tôi ngắm mãi những ngày thu tận - 2008), Mai Văn Phấn (Giọt nắng - 1992, Gọi xanh - 1995, Cầu nguyện ban
mai - 1997, Nghi lễ nhận tên -
1999, Người cùng thời (trường ca -
1999), Vách nước - 2003, Hôm sau - 2009, và đột nhiên gió thổi - 2009, Bầu
trời không mái che - 2010, Hoa giấu
mặt - 2012, Vừa sinh ra ở đó -
2013), Đồng Đức Bốn (Con ngựa trắng và
rừng quả đắng - 1992, Dòng sông đời
mẹ - 1999, Trở về với mẹ ta thôi
- 2000, Cuối cùng vẫn còn dòng sông -
2000, Chim mỏ vàng và hoa cỏ độc -
2002), Ý Nhi (Vườn - 1999), Nguyễn
Bình Phương (Xa thân - 1994, Lam chướng - 1997, Từ chết sang trời biếc - 2001, Buổi câu hờ hững - 2011), Nguyễn
Việt Chiến (Mưa lúc không giờ - 1992,
Ngọn sóng thời gian - 1998, Cỏ trên đất - 2000, Những con
ngựa đêm - 2003, Trăng và thơ đọc
chậm - 2012), Văn Cầm Hải (Người đi
chăn sóng biển - 1995), Nguyễn Hữu Hồng Minh (Giọng nói mơ hồ - 1999, Chất
trụ - 2002), Trần Quang Quý (Giấc mơ
hình chiếc thớt - 2003, Màu tự do của
đất - 2012), Lãng Thanh (Tập thơ hoa
và những trang viết để lại - 2006), Vi Thuỳ Linh (Khát - 1999, Linh -
2000, Đồng tử - 2005, ViLi in love - 2008, Phim đôi - tình tự chậm - 2010, Chu du cùng ông nội - 2011, ViLi in Paris - 2012), Phan Huyền Thư (Nằm nghiêng - 2002, Rỗng ngực - 2005, Sẹo độc lập
- 2014), Phan Thị Vàng Anh (Gửi VB -
2006), Từ Huy (Chữ cái - 2007), Đỗ
Doãn Phương (Những ngọn triều nhục cảm
- 2008, Hoan ca - 2011), Đinh Thị Như
Thuý (Cùng đi qua mùa hạ - 2005, Phía bên kia cây cầu - 2007, Ngày linh hương nở sáng - 2011, Nơi ngày đông gió thổi - 2011), Nguyễn
Bảo Chân (Những chiếc gai trong mơ -
2010), Nguyễn Phan Quế Mai (Trái cấm
- 2008, Cởi gió - 2010, Những ngôi sao hình quang gánh - 2011),
Nguyễn Thế Hoàng Linh (Mỗi quốc gia một
thành phố của thế giới - 2009, Mật
thư - 2013), Lữ Thị Mai (Giấc -
2010), Nhuỵ Nguyên (Khi người ta cúi mặt
- 2011), Trương Đăng Dung (Những kỷ niệm
tưởng tượng - 2011), Phùng Cung (Xem
đêm, xuất bản 1995, tái bản 2011), Phan Hoàng (Chất vấn thói quen - 2012), Nguyễn Lãm Thắng (họng đêm - 2012), Mã Giang Lân (Những
lớp sóng ngôn từ - 2012), Miên Di (thơ
miên di - 2013), Nguyễn Ngọc Tư (Chấm
- 2013), Nguyễn Phong Việt (Đi qua thương
nhớ, Từ yêu đến thương - 2013), Việt Anh (Rẽ lối nào cũng gặp nhớ thương - 2014), Nồng Nàn Phố (Anh ngủ thêm đi anh Em phải dậy lấy chồng
- 2014), Đặng Thân (Không hay - 2014)(3),…
giúp chúng ta có được những hình dung dù là chưa hoàn kết về thơ Việt đương
đại. Sự sắp xếp những tác giả, tác phẩm này vào một khuôn hình nhất định nào đó
luôn ẩn chứa sự khiên cưỡng. Bởi vậy, xác lập khuynh hướng, kiểu dạng sáng tác
ở đây và ở cả những công trình tổng quan khác đều mang tính tương đối. Chẳng
hạn, Nguyễn Bá Thành trong Chương 8, Phần III - Tư duy thơ Việt Nam sau 1986 chỉ ra một số xu hướng: Xu hướng đối thoại dân chủ và cảm hứng phê
phán/ Xu hướng chối bỏ các thể thơ truyền thống/ Xu hướng duy trì các thể thơ
truyền thống/ Thế tục hoá và dung tục hoá biểu tượng thi ca/ Đổi mới về chức
năng xã hội và xu hướng thơ chơi(4). Trong khi đó, Nguyễn Đăng Điệp lại chỉ
ra các khuynh hướng nổi bật của thơ Việt Nam sau 1975 như: Xu hướng viết về chiến tranh qua những khúc ca bi tráng về số phận của
dân tộc/ Xu hướng trở về với cái tôi cá nhân, những lo âu của đời sống thường
nhật/ Xu hướng đi sâu vào những vùng mờ tâm linh, đậm chất tượng trưng, siêu
thực/ Xu hướng hiện đại (và hậu hiện đại)(5). Căn cứ trên những biểu hiện
về mặt quan niệm thơ, cách kiến tạo thi ảnh, các phương tiện cấu trúc thi giới,
những ứng xử với ngôn ngữ, những động hình của tư duy và mỹ cảm…, theo chúng
tôi thơ Việt Nam sau 1975 vận hành theo ba khuynh hướng lớn: Khuynh hướng bảo tồn những giá trị thơ ca
truyền thống/ Khuynh hướng cách tân/ Khuynh hướng cách tân trên cơ sở kế thừa
truyền thống. Tuy nhiên, ngay trong sự bảo tồn giá trị thơ ca truyền thống
cũng đã manh nha những động hướng mới cả về nội dung và hình thức nghệ thuật
(Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn, Mai Văn Phấn giai đoạn khởi đầu,…). Khuynh hướng cách
tân lại có thể lần ra hai hướng chuyển động: cách tân về nội dung thể tài, thi hứng (Nguyễn Trọng Tạo, Phạm Thị
Ngọc Liên, Dư Thị Hoàn, Mai Văn Phấn, Nguyễn Quang Thiều, Dương Kiều Minh,
Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Việt Chiến, Inrasara, Nguyễn Bảo Chân, Nguyễn Phan
Quế Mai, Đinh Thị Như Thuý, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Vi Thuỳ Linh, Phan Thị
Vàng Anh, nhóm Ngựa trời, Nguyễn Lãm Thắng,… - có người gọi là thơ dòng
nghĩa) và cách tân về hình thức
ngôn ngữ thi ca (Dương Tường, Lê Đạt, Trần Dần, Đặng Đình Hưng, Hoàng Hưng,
Đoàn Văn Chúc, Từ Huy,… - gọi là thơ dòng chữ). Khuynh hướng cách tân trên cơ sở kế thừa truyền thống lại hiện lên
trong những sáng tác của Mai Văn Phấn mang hơi hướng cách tân từ giai đoạn đầu
và tân cổ điển ở chặng gần đây, Trương Đăng Dung, Văn Công Hùng (trong lục
bát), Đinh Nam Khương, Nguyễn Ngọc Tư, Miên Di,… Vẫn có thể thấy rõ tác giả của
khuynh hướng này có lúc, có chỗ lại giao thoa, thâm nhập vào khuynh hướng khác,
không phải là những khuôn hình cố định, bất biến. Mặt khác, do đặc tính tự do
trong sáng tạo, khuynh hướng, trường phái không phải là điều bận tâm của thi
sĩ. Công việc cơ giới và cứng nhắc này thuộc về người nghiên cứu, phê bình với
tính tương đối đã được tiên lượng. Từ góc độ thể loại, có thể thấy thơ Việt sau
1975 rẽ làm hai nhánh: phát huy thế mạnh
của các thể loại đã có/ sáng tạo hình
thức thể loại mới (Tân hình thức, thơ văn xuôi, thơ không ngắt câu, ngắt
dòng, thơ thị giác, sắp đặt, thơ ngoài lời, thơ cụ thể, thơ tịnh tiến, thơ con
âm, con hình,…). Từ phương pháp sáng tác, thi pháp có thể thấy sự hiện diện của
(kiểu - lối) thơ cổ điển, lãng mạn, tượng
trưng, siêu thực, tân cổ điển,... Từ góc độ người tiếp nhận lại có thể nhận
thấy hai hiện trạng: thơ dành cho đại
chúng (văn học phổ thông) và thơ chỉ
dành cho những tầng lớp tinh tuyển - thơ khó(6). Từ lý thuyết hệ hình lại
có thể nhận ra dấu vết của kiểu thơ thuộc
hệ hình tiền hiện đại/ Hiện đại/ Hậu hiện đại(7) trong chính sinh thể thơ
ca đương đại.
Một vấn đề vẫn thấy cần phải được ý thức
trong tính bất toàn, chưa ngưng kết của thực thể thơ Việt chính là sự hình dung
nào về mỹ học của thơ đương đại? Câu hỏi đó dĩ nhiên cũng không đòi hỏi một xác
quyết (bởi tính chưa hoàn kết của nó) nhưng cũng cần một mô tả ít nhiều làm
hiện hình đối tượng. Theo chúng tôi, ba khuynh hướng nêu trên gắn với ba nguồn
thơ, quan niệm về chất thơ, cách kiến tạo thế giới nghệ thuật và phương tiện/
cách thức biểu đạt chủ đạo về cơ bản là khác nhau.
Các nhà thơ thuộc khuynh hướng bảo tồn các giá trị thơ ca
truyền thống vẫn trung thành với quan niệm thơ là địa hạt
của sự thanh cao, diễm lệ, là sự lên tiếng của trái tim đang xúc cảm mãnh liệt
về sự sống thông qua thể nghiệm kỳ diệu của chủ thể sáng tạo. Ở địa hạt này, mỹ
học của thơ thể hiện tín niệm về “cái đẹp”, đồng thời đưa cái đẹp đến giới hạn
của tính thiêng. Phần lớn các thi sĩ trưởng thành trong kháng chiến, những chủ
thể sáng tạo đã từng đi qua chiến tranh, từng ít nhiều hít thở dưỡng khí của
thơ trước giải phóng, khước từ, bất tín với những thể nghiệm mới của thi ca
khởi hành từ sau thời điểm thống nhất, đổi mới và hội nhập. Dòng này rất lớn và
vẫn đang vận hành như một chủ lưu của thơ Việt đương đại. Có thể nhắc đến ở đây
những tên tuổi như: Xuân Quỳnh, Đoàn Thị Lam Luyến, Phan Thị Thanh Nhàn, Trần
Nhuận Minh, Lê Thị Mây, Diệp Minh Tuyền, Nguyễn Thị Hồng Ngát, Ý Nhi, Vũ Quần
Phương, Trương Nam Hương, Lê Đình Cánh, Vũ Thị Khương, Huy Trụ,
Vân Long, Chu Thị Thơm,… Không siêu hình để quy hiện tượng có tính thời điểm
cho một hành trình, (và rõ ràng là chính những thi sĩ này có người đã rời bỏ quan
niệm một thời để kiếm tìm nguồn sống, nguồn thơ khác), nhưng những câu thơ của
họ vẫn nhắc ta: “về một thời hoa đỏ diệu
kỳ” (Thanh Tùng), về “Con đường có lá
me bay/ Chiều chiều ta lại cầm tay nhau về” (Diệp Minh Tuyền), về “Những mùa trăng mong chờ” (Lê Thị Mây),
“Nước chảy bên lòng anh đợi em” (Vũ
Quần Phương), “vẫn nhớ mãi những tháng
ngày đẹp ấy” (Nguyễn Thị Hồng Ngát),… Như một sự vận động có tính tất yếu,
chất thơ này dung nạp, biểu hiện trong hình hài những “vần thơ” và các thể thơ
truyền thống hoặc đã từng quen biết trước đó: Lục bát, Năm chữ, Bảy chữ, Tám
chữ,… Sự du dương, êm ái của thơ gợi lên từ tính lan toả của vần điệu, của ngôn
ngữ biểu cảm và diễm mỹ khiến cho thế giới nghệ thuật thơ của khuynh hướng này
êm đềm, thanh nhẹ, nhiều vỗ về,… Đặc biệt, ở địa hạt này, tính điển phạm nổi
lên như một sắc thái đặc thù trong quan niệm của chủ thể sáng tạo tương thích
với tính chất (được quan niệm) của thể loại. Vẫn có nỗi đau, vẫn đầy trăn trở,
vẫn âu lo, vui buồn, hờn giận,… nhưng, người ta sẽ đi qua tất cả để lại quay về
với “cái đẹp” tiên nghiệm mang tính điển phạm. Kỳ thực, đó là điểm níu bám của con người như một hằng số hiện sinh mà
họ khó lòng có thể để tuột tay hay đánh đổi(8).
Một khuynh hướng khác trỗi lên cũng rất mạnh
như là sự phản ứng với khuynh hướng “bảo hoàng” đã nhắc tới ở trên: khuynh hướng cách tân. Khuynh hướng này
lại có thể chia ra thành hai chi lưu: cách
tân nội dung thể tài và cách tân hình
thức thể loại. Cách tân nội dung thể tài biểu hiện rõ nhất trong việc các
thi sĩ đương đại tìm kiếm một nguồn sống mới, khai thác sâu hơn vào những tầng
vỉa của đời sống tâm linh, vô thức, những ẩn ức khuất chìm trong vùng tối của
bản năng sống, bản năng người. Điều cần nhấn mạnh là những phức cảm này chỉ mới
trong bối cảnh con người Việt Nam sống quá lâu trong những vùng không gian có
tính cộng đoàn, tập thể mà quên đi tiếng kêu của bản thể trong tư cách là một
cái tôi toàn nguyên. Mặc cảm bị “thiến hoạn” đã được giải toả, con người hướng
đến những giá trị có tính phổ quát của giống loài nhằm bù đắp phần thiếu hụt
vẫn luôn âm ỉ, thôi thúc trong vũng tối của tiềm thức, vô thức. Sự trỗi dậy
mạnh mẽ của ý thức phản tư, tâm linh, tính dục, nữ quyền, ngoại vi, bên lề, bề
trái, thiểu số,… đã trả lại cho đời sống, thơ ca những trường thẩm mỹ (mới) như
là sự bổ khuyết làm nên hiện thực toàn nguyên của thế sự. Thơ Phạm Thị Ngọc
Liên, Dư Thị Hoàn, Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn, Dạ Thảo Phương, Phan Huyền
Thư, Lynh Bacardi, Khương Hà, Thanh Xuân, Nguyệt Phạm, Phương Lan, Vi Thuỳ
Linh,… giúp con người nhận ra diện mạo của mình mà trước hết là rọi sáng những
khoảng khuất lấp vốn dĩ không tách rời để làm nên thân phận. Từ văn học đến văn
hoá, từ sự kiến tạo chủ thể sáng tạo đến kiến tạo con người đương đại, các tác
giả thơ thuộc khuynh hướng này đã nỗ lực tái cấu trúc thân phận, diện mạo trong
bối cảnh đương đại đang mở rộng, dung nạp tính đa khả thể, thậm phồn, cùng xu
hướng chối từ các đại tự sự, giải trung tâm, giải huyền thoại, tự thuật của cái
khác,… Có thể, nhà thơ không bận tâm lắm đến những tri thức này, nhưng chính
họ, trong lẽ sống của mình đã đòi hỏi sự tự biểu hiện như là một nhu yếu. Sự
trở lại của con người bản thể trong thể loại tuyên xưng tối đa tinh thần cá
nhân chính là nét nổi trội của thơ đương đại. Các nhà thơ viết bằng chính trải
nghiệm, thể nghiệm của họ, viết để được là chính mình:
Mười ngón
tay xoè ra
bưng lấy khuôn mặt bé xíu
ửng lên vì niềm vui lần đầu tiên
em... khóc nưng nức
nước mắt tràn ngập khắp thân thể
trong giây phúc tận hiến
Đau chiếc khăn thắm màu trinh tiết Mẹ Nữ Oa
phủ mặt trong lần đầu linh thánh
giây phút bắt đầu khai triển nhân loại.
Những ngón tay sần lên sục sạo
khắp khe hang đồi núi vực sâu.
Niềm hạnh phúc chực ộc ra nóng ấm
ôm lấy tấm thân non trẻ
Anh trở vẻ mùa yêu đương
trên tay kiêu hãnh thanh kiếm chiến chinh bén sắc
chực đâm thủng những ngày nhàn nhạt
(Hợp nhất - Nguyệt Phạm)
Ở khuynh hướng này, người đọc đã
sớm nhận ra những quẫy cựa bản nguyên nữ trong thơ Phạm Thị Ngọc Liên, Dư Thị
Hoàn, một chiều sâu văn hoá và tinh thần nhân văn
rộng lớn trong thơ Nguyễn Quang Thiều, sự hoà hợp, trở về với thiên nhiên trong
tâm thế của Mai Văn Phấn, một thực hành viết như là thực hành sống của con
người cá nhân tự do trong thơ của nhóm Ngựa trời, Vi Thuỳ Linh(9),…
Ở chi lưu thứ hai thuộc khuynh hướng cách tân
(cách tân hình thức ngôn ngữ thơ),
đáng kể nhất là các nhà thơ dòng chữ. Có thể gọi tên các thi huynh đệ của lưu
phái này như: Trần Dần, Lê Đạt, Dương Tường, Đặng Đình Hưng, Hoàng Hưng, Đoàn
Văn Chúc và gần đây là Từ Huy (2006),… Với các thi sĩ này, ngôn ngữ / chữ là
hiện thực trực tiếp và thứ nhất của tư duy thơ. Chữ khơi gợi tư duy và mỹ cảm.
Khi tuyên bố làm thơ là làm chữ, đồng nhất thơ vào chữ (Trần Dần), tự nhận mình
là “phu chữ” (Lê Đạt), các thi sĩ đã đi đến tận cùng chiều năng nghĩa của chữ
hay như Dương Tường nói là phát huy tối đa cái “năng biểu” của chữ. Âm, hình,
tự dạng, màu sắc, cách thức bày bố, thể hiện chữ được triệt để khai thác, vượt
qua những lớp nghĩa tự vị, tiêu dùng để phát sinh năng lượng thi tính mới. Các
nhà thơ dòng chữ đã rút bỏ khả năng biểu vật, biểu thái, biểu niệm của thực từ,
hư hoá thực từ bằng cách đẩy chúng vào các cấu trúc mới, phát sinh nghĩa trong
cú pháp hơn là nghĩa từ vựng, buộc chúng phải sống đời sống của hư từ. Cùng với
đó, việc phá bỏ cấu trúc của từ ghép, từ láy, đảo trật tự, nhể bỏ hình vị ra
khỏi từ hoặc sử dụng hình vị gốc sau khi đã cắt đuôi từ tố ăn theo, tách và
ghép các âm tố, làm sai (theo tín niệm ngữ pháp thông thường), nhịu, vấp trong
chuỗi ngữ lưu tiếng Việt,… tạo cơ hội vẫy gọi liên tưởng hay giải phóng các
năng biểu về âm, nghĩa, hình của từ, hình vị, âm vị,… Thậm chí, một số thực
hành của Đặng Đình Hưng, Hoàng Hưng, Dương Tường, ngôn ngữ thơ lại chính là sự
ký âm, ký hoạ các phương diện của chữ:
Em về phố lặng
lòng đổ
chuông
llềnh lluềnh
nước
lli
lluâng
lloang llưng
lliêng llinh
lluông buông boong
ad lllibitum
(noel 1
- Dương Tường)(10)
Cấu trúc của thơ dòng chữ là cấu trúc của
những tiền giả định (Lê Đạt gọi là vân
chữ, bóng chữ), xuất hiện do chính khả năng vẫy gọi, tụ nghĩa, liên tưởng
của từ, chữ, âm, hình,... trong quá trình vỡ ra và tái thiết một trật tự, một
khả năng biểu nghĩa mới:
Nắng tạnh heo mày hoa lạnh
Mimôza chiều
khép cánh mi môi xa
(Mimôza
- Lê Đạt)
Khuynh hướng thứ ba tồn tại như là dòng giữa
của sự bảo tồn truyền thống và cách tân thơ Việt. Sự cách tân trên cơ sở kế thừa và phát huy các ưu thế của truyền thống
thơ trữ tình Việt Nam có thể thấy hiện rõ trong những sáng tác của Trương
Đăng Dung, những dự cảm giai đoạn đầu hay sự trở về mới mẻ của Mai Văn Phấn
thời gian gần đây, cách làm mới lục bát của Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn, Văn Công
Hùng, Đinh Nam Khương, Nguyễn Việt Chiến, Miên Di, Nguyễn Thế Hoàng Linh…
Anh không còn gì ngoài bàn tay em
vuốt lên tóc
anh trước cả ánh mặt trời
thời gian
rơi
qua từng kẽ
ngón tay em vất vả
không giữ
được đâu em
anh nghe
ngày một gần hơn tiếng lũ quạ
(Anh
không còn gì ngoài em - Trương Đăng Dung)
Và đặc biệt, dù là bằng hữu thâm giao của
nhóm dòng chữ, nhưng Hoàng Cầm và
Phùng Cung (Xem đêm) lại sống thơ
nhiều hơn ở dòng giữa này. Dấu ấn truyền thống thể hiện những thể thơ quen
thuộc (đôi khi họ không ý thức bởi sự hằn sâu của ký ức thể loại), nhất là âm
hưởng của thơ trữ tình Việt Nam vốn giàu tính tượng trưng phương Đông, mang đặc
tính tổng hợp và duy mỹ, duy linh,… Ở khía cạnh cách tân, các thi sĩ này đã
dùng thể thơ cũ như một thứ tri thức tiên nghiệm rồi từ đó cấu trúc lại nhịp
điệu và ngôn ngữ trong thơ. Đáng kể nhất là kiểu lục bát “thảo dân” của Nguyễn
Duy, lối lục bát thị dân (thế hệ thứ 3) của Nguyễn Thế Hoàng Linh, Miên Di, lối
lục bát đọc chậm của Nguyễn Việt Chiến,…
Sao không chung mảnh buồn nhau để cho mây trắng trên đầu
đưa xa. Có khi không ở trong nhà, mà sao cứ tưởng ở ba ngã đường, có ngày mà
tối bưng bưng, đập im ắng để tưng bừng vỡ ra. Sỏi là sỏi ở ngoài da, bên trong
lòng sỏi cũng là đá thôi. Nên cau trầu phải têm vôi, ngày vui chất chứa một đôi
chút buồn.
(Lục
bát ly thân - Miên Di)
Trong những mô tả chủ quan và dang dở, thơ
Việt Nam sau 1975 còn hàm chứa những sắc thái khác chưa thể gọi tên (như đã nói,
những công trình của Nguyễn Đăng Điệp - tlđd, Nguyễn Bá Thành - tlđd, Đỗ Lai Thuý
- Thơ như là mỹ học của cái khác,
Phan Huy Dũng - Phê bình thơ với vấn đề
đánh giá những hành động cách tân thơ hiện nay, Trần Ngọc Hiếu - Tìm hiểu một quan niệm nghệ thuật về ngôn từ
trong thơ Việt Nam đương đại, Phạm Quốc Ca - Mấy nhận xét về thể thơ trong thơ trữ tình Việt Nam 1975 - 2000,
Đặng Thu Thuỷ - tlđd, Inrasara - Song
thoại với cái mới, Nguyễn Đức Tùng - Thơ
đến từ đâu và những người khác nữa sẽ bổ khuyết cho bức tranh này). Việc
trình hiện một vài hình dung như trên tạo cơ sở cho quá trình lý giải, đánh giá
về tính hợp thức (tri thức và chân lý) của các khuynh hướng thơ ca đương đại
Việt Nam. Từ những khuynh hướng đó nói lên các điều kiện lịch sử, xã hội, văn hoá,
thị hiếu, tư duy, mỹ cảm sáng tạo và thưởng thức thơ, làm thành không gian thơ
Việt Nam đương đại. Và, một điểm nhấn có thể nhận ra ngay trong bức tranh dang
dở này, Mai Văn Phấn xuất hiện ở tất cả các khuynh hướng. Chỉ riêng điều đó đã
khiến ta cần phải chú ý và diễn giải về nguyên do, cơ chế, khả năng cũng như
tính hợp thức của sự hiện hữu.
N.T.T
_____________
(1) Trong một tiểu luận dài hơi hơn, thuộc chương trình tủ
sách chất lượng cao của Đại học Quốc gia Hà Nội, chúng tôi trình bày kỹ lưỡng,
đầy đủ hơn về Ngữ cảnh của thơ Việt nam
sau 1975.
(còn nữa)