"Biến tấu con quạ", khi bóng đêm cất lời… (phê bình) - Lê Hồ Quang
"Biến tấu con quạ", khi bóng đêm cất lời…
Nhà phê bình văn học, TS. Lê Hồ Quang
Lê Hồ Quang
Con
quạ, không nghi ngờ gì
nữa, là một biểu tượng đặc biệt - nó là một cổ mẫu (archetype) trong đời sống văn
hóa nhân loại.
Theo Từ điển biểu tượng văn hóa
thế giới , “con chim đen” này là một biểu tượng đa
nghĩa. Một mặt, quạ là tượng trưng cho điềm dữ, là sứ giả cái chết, nỗi bất
hạnh. Mặt khác, quạ là đại diện cho điều chưa biết tới, cõi Khác, thế giới thần
linh. Nó còn được xem là con vật thiêng, kẻ tiên tri, tiên báo; tượng trưng cho
sự sáng suốt. Ngoài ra, quạ còn là biểu tượng của nỗi cô đơn cao cả, siêu hình,
thần bí… Trong văn học dân gian, con quạ (con ác) xuất hiện với bộ lông đen,
thường đại diện cho cái xấu, các ác, sự chết chóc… Trong văn học thành văn, quạ gắn với nhiều
tác phẩm nổi tiếng như Con quạ của Edgar Allan Poe; Từ
ô dạ đề (Lí Bạch), Đêm thu nghe tiếng quạ kêu (Quách
Tấn), Nấm mộ (Bích Khê), Tiếng quạ trên sông Chu (Yến
Lan)...
Chắc chắn Mai Văn Phấn không xa lạ gì với ý
nghĩa tượng trưng của quạ. Mục tiêu của ông cũng không dừng lại ở những nét
nghĩa có tính ổn định của “mẫu gốc”. Điều này thể hiện ngay trên tên của bài
thơ - Biến tấu con quạ. Nhất định con quạ của ông sẽ phải khác,
dẫu từ “biến tấu” cho thấy một thái độ cân nhắc và chừng mực.
Với 101 dòng thơ, tập trung vào hình
tượng quạ, Biến tấu con quạ chứa đựng nhiều lớp nghĩa đối lập.
Ý nghĩa thứ nhất, khá quen thuộc - nó là sứ giả của cái chết: Tử khí
kéo ngọn bấc tới đỉnh trời/ Con quạ rực sáng. Đó không chỉ là cái chết
về mặt thân xác của cá thể. Đó còn là sự “băng hoại” của nhiều giá trị
đời sống, những thiết chế quyền lực chính trị, văn hóa, tôn giáo. Và đương
nhiên, cả văn học nghệ thuật. Đó là cái chết của những giá trị tinh thần: Sau
tiếng quạ kêu/ Ra đi không cưỡng lại/ Gói bọc được mở ra/ Sự băng hoại không
thể cất giấu… Con quạ là sự hủy diệt không khoan nhượng đối với mọi “xác
chết”. Không xác chết nào thoát khỏi móng vuốt tàn bạo của nó:
Bổ nhào từ đỉnh cao
Bằng đôi cánh sắc
Lấy tâm điểm xác chết
Chém toác bầu không
Gió hấp tấp không kịp băng bó
Móc từ hốc mắt
những nhãn quan
Di ảnh là vật chứng
Mổ vào lưỡi
và kéo dài
Phơi dưới trời bài học khẩu ngữ
Bóc từng mảng thịt
Tháo rời tứ chi
Sổ tung lục phủ ngũ tạng
Nhưng hành động tiêu
diệt, phá hủy, “sổ tung lục phủ ngũ tạng” của quạ còn nhằm thiết lập và
kiến tạo một trật tự mới. Bởi vậy, là kẻ hủy diệt, quạ đồng thời là kẻ khai
sinh thế giới. Từ “khai
sinh” được lặp lại trong ba đoạn liên tục, nhấn mạnh những gì đã xuất hiện
“sau tiếng quạ kêu”: Gói bọc được mở ra/ Sự băng hoại không thể cất giấu;
Thầy lang đốt sách cuối vườn/ Tân dược trong kho đều quá hạn sử dụng… Sự
thật đã phơi bày sau tiếng quạ kêu. Những sự thật tàn bạo, đau đớn, đáng căm
phẫn. Bằng bút pháp siêu thực, Mai Văn Phấn đã khái quát về thực tại nhân sinh
như một trạng thái sống thường trực bị đe dọa: Con cá nhảy vào đám mây
tự vẫn/ Buông ngang trời ngàn vạn lưỡi câu. Hình ảnh con cá nhảy vào
mây đầy hư ảo không thể xóa cảm giác bi đát khi trùng trùng trong không gian
bao la trời mây ấy vẫn là “ngàn vạn lưỡi câu” vây bủa, rình rập. Không
gian càng rộng, hiểm họa càng lớn. Nhảy vào đám mây, rốt cục, chỉ là một cách
trốn chạy cùng quẫn, một cách “tự vẫn”.
Sắc thái bi đát và đe dọa được nhân lên,
một mặt, do tính chất “kinh dị” của hình ảnh mô tả, mặt khác, do tính “liên văn
bản” với những sự kiện lịch sử, những huyền tích văn hóa (câu chuyện rắn trả
thù, cái chết thảm khốc của Nguyễn Trãi và gia tộc, cái chết dữ dội của Cao Bá
Quát, của rất nhiều kẻ sỹ trong lịch sử dân tộc và nhân loại…) - câu chuyện về
bút, mực và số phận con người, rộng hơn, là câu chuyện của đời sống, của quá
khứ nối liền hiện tại và không hề loại trừ tương lai:
Khai sinh
Mực đổ dưới chân và máu
vón cục ở yết hầu, phế quản
Viết một nét lên trang đầu
Thấm suốt cả ngàn trang sách
Từ
góc nhìn này, mực không chỉ là mực. Mực là máu. Bao oan khuất, bi thương đã
được diễn tả qua hình ảnh sóng đôi này. Như một tiếng thét vô
thanh, uất hận, dữ dội: Viết một nét lên trang đầu/ Thấm suốt cả ngàn
trang sách. Ở đây, Biến tấu con
quạ đặt ra vấn đề nhận thức về bi kịch của kẻ sỹ, nỗi đau oan khuất, đồng
thời, cả sức mạnh và sứ mệnh của những người nghệ sĩ - trí thức, thông qua biểu
tượng mực/ máu. (Biểu tượng máu rồi sẽ xuất hiện trở
lại rất mãnh liệt và kinh dị trong trường ca Thời tái chế, tác phẩm
mới nhất của Mai Văn Phấn, xuất bản 2018). Nó đem lại cơ hội nhận chân sự thật,
những sự thật từng bị che giấu, chôn vùi. Đó chính là ý nghĩa, giá trị của sự
khai sinh.
Sự xuất hiện dày đặc của
bóng quạ trong không gian ngùn ngụt tử khí gợi liên tưởng đến Ngày tận thế đã
được tiên báo trong sách Khải huyền của
thánh Gioan trong Ki Tô giáo với chiến tranh, dịch bệnh, nạn đói, thiên
tai... Quạ là hiện thân của trận Đại hồng thủy, của cơn dịch bệnh toàn cầu đã
và đang nhấn chìm nhân loại. Đó là tai ương con người tự chuốc lấy do sự tối
tăm, kiêu ngạo, ác độc của mình. Quạ, trong trường hợp này, phải chăng là tượng
trưng cho sự trừng phạt của Thiên Chúa với loài người, là đại diện của một sức
mạnh thiêng liêng, tối thượng? Không gì có thể cản trở được sức mạnh hủy diệt
tàn bạo mà hữu lí đó:
Con quạ bay vào phòng
Một ngón tay yếu ớt giơ lên
Ý nói:
Đây
là họng súng
Là
lưỡi mác
Thậm
chí cuốc thuổng
Thậm
chí chính ngón tay rất cứng
Đúng hơn là đông cứng
Rồi băng đá
Rồi rữa tan.
Con quạ của Mai Văn Phấn không phải là
một biểu trưng bị ép khô với những lớp nghĩa mặc định. Nó hiện ra với tính cách
của loài chim dữ, với các hoạt động cơ thể liên tục, mạnh mẽ, chẳng hạn cổ họng
kêu; cánh bổ nhào, bay, xõa; chân, móng móc, bóc, sổ tung;
mỏ mổ, kéo, khoét… Và cả những hành động phức tạp hơn, không chỉ của
động vật, ví dụ, thảng thốt kêu, mơ. (Xin lưu ý là chi tiết “con
quạ mơ” được nhắc tới hai lần và đều là những giấc mơ đa nghĩa: Con
quạ mơ/ Mọi cái chết đều được sắp đặt; con quạ mơ mỗi mẩu thức ăn đang nén chặt
trong diều đều biến thành qua trứng).
Trên nền bối cảnh tăm tối và ngùn ngụt
tử khí, chân dung loài ác điểu trở nên đặc biệt nổi bật: CON QUẠ RỰC SÁNG. Quạ
là tâm điểm của thế giới. “Bóng quạ”
cùng “bóng đêm” và “bóng đen” “ập tới” chiếm lĩnh
thế giới. Không gian bao trùm bởi những linh cảm sợ hãi chết chóc: Bóng
mình/ không cất tiếng/ Sợ biến thành gà con. Trong bóng tối nhập nhoạng,
thực ảo, giả thật lẫn lộn, người cũng có khi “khoác áo đen, mặt nạ đen, đập
cánh tay vào hai bên sườn”, “bay là là mặt đất”. Và con quạ, trong
giấc mơ hung hiểm của nó, cũng mơ mỗi mẩu thức ăn biến thành quạ. Cái ác nhân
lên, cái chết và nỗi kinh hoàng bội trương trong bóng tối tử khí. Bị đẩy trước
miệng vực cái chết thảm khốc, trong thảm họa tận diệt, con người buộc phải chấp
nhận trả giá, ngay cả những cái giá kinh hoàng và đau đớn nhất: “Đây là
dòng cuối cùng trong một bản di chúc: “Bắt đầu lễ Thiên táng lúc xuất hiện bóng
quạ”. Thiên táng (còn gọi là Điểu táng) là một tục lệ mai táng lâu đời và
kì bí của người Tây Tạng. Khi có người qua đời, thi thể của họ sẽ được đưa lên
núi để làm mồi cho các loại chim dữ. Hình ảnh đầy tính biểu tượng này tô đậm
thêm tính chất dị thường, bí ẩn của “bản
di chúc” nhân loại, đồng thời nhấn mạnh tính chất chuyển hóa, tuần hoàn của
vòng sống tự nhiên. Trong đó, sự sống và cái chết, ánh sáng và bóng tối… dường
như chỉ cách nhau trong tấc gang. Đi qua cánh cửa của bóng tối và cái chết là
cách duy nhất để nhân loại có thể trỗi dậy: Sau những loạt đạn không
sát thương, khói hương căng thành bảng, viết con chữ đầu tiên của bài học mới.
Nhưng tác giả không đề nghị với chúng ta
một kết thúc lạc quan dễ dãi. Một phần, có lẽ bởi vì ông tôn trọng tính diễn
trình như một “đặc thù” của Biến tấu con quạ. Nó vẫn là cái đang là, đang diễn ra. Bởi vậy, ở kết
thúc, “bóng đêm chui dần vào bụng quạ”, thân xác con người từng phần
chui vào bụng quạ, nhưng linh hồn “chúng ta” vẫn chưa thể rời bỏ bóng
tối. Bởi bóng tối vẫn ở trong “chúng ta”. Và con người vẫn nằm trong sự
tăm tối, mù lòa tự thân: “Bật que diêm rồi, vẫn nhớ ngọn bấc còn rất xa.
Vung tay lên, nói to một mình trong bóng tối”. Đúng lúc ta ngỡ đã nắm chắc
mọi ý nghĩa của quạ, đúng hơn, của Biến
tấu con quạ, biểu tượng bỗng tuột ra khỏi tay ta, ôm chặt niềm bí ẩn tự
thân vào nó.
Biến tấu con quạ cho thấy năng lực bao quát và
chuyển tải các vấn đề phức tạp của đời sống thế sự thành ngôn ngữ hình tượng
của tác giả. Tác phẩm cũng thể hiện khát vọng đổi mới xã hội mạnh mẽ. Từ một
góc độ nhất định, con quạ mang dáng dấp của Kẻ Phá Hủy Vĩ Đại, một
hình tượng thể hiện khá đậm nét phẩm tính lãng mạn. Phá hủy trật tự cũ để kiến
tạo trật tự mới là điều cần thiết trong đời sống xã hội cũng như đời sống cá
nhân, trong hoạt động hiện thực cũng như trong hành động sáng tạo, nhưng bản
thân điều này luôn gây đau đớn, kinh hoàng, luôn đòi hỏi nhiều sức mạnh và sự
can đảm. Tác phẩm mang tầm vóc của một trường ca (hiểu theo nghĩa tác phẩm có
khả năng chuyển tải những vấn đề lịch sử - thời đại lớn, chứ không chỉ dừng lại
ở độ dài của số lượng câu chữ) và không bị đóng kín trong một “kết thúc đẹp,
trọn vẹn” (là điều Mai Văn Phấn vẫn mắc phải ngay trong các tác phẩm dài hơi
viết về đề tài thế sự như trường ca Người cùng thời trước đó
hoặc Thời tái chế sau này).
Trên trục chủ đề “biến
tấu con quạ”, với hình tượng trung tâm, xuyên suốt là loài chim đen, mạch
thơ phăng mạnh với nhiều tầng liên tưởng dày rậm, bất ngờ. Tác giả chú ý đến
tính hoạt cảnh trong liên tưởng hơn là những chi tiết riêng lẻ, đứt gãy. Đọc
riêng từng đoạn nhỏ (được ngăn cách bởi dấu hoa thị), ta vẫn nhận ra tính độc
lập tương đối của chúng, với những tìm tòi chi tiết, hình ảnh riêng, gây ấn
tượng lạ lẫm. Chẳng hạn đoạn thơ văn xuôi đầy siêu thực này:
Những đau khổ tột cùng ngoái nhìn đời
sống tưởng chừng đã chết. Áo khoác kêu thất thanh khi đi qua bàn tủ. Máy điện
thoại im lìm ngủ. Chiếc kẹp ghim mở miệng cố giấu đi móng vuốt. Cán chổi móc
vào tay người lao công, kéo chị ta về bên hố rác. Vành mũ trên đầu kêu thảng
thốt, rồi cúi xuống rỉa hết mặt nhân viên bảo vệ. Không ai mở cổng. Nhiều người
vẫn tìm được lối đi vào.
Đấy là một bức tranh đời sống nghịch dị.
Ở đó, mọi trật tự bị đảo lộn. Ở đó, bóng tối, cái ác, sự tàn bạo chiếm hữu. Thế
giới bị xô lệch, đảo ngược, với những hình hài méo mó, vật vờ, gợi nhớ đến thế
giới đồ vật kỳ dị trong tranh Salvador Dali. Và cảm giác thống khổ cuồng nộ kìm
nén chực vỡ tung gợi nhớ bức Tiếng thét của Edvard Munch. Điều
đáng nói là thế giới kỳ dị ấy lại cũng rất gần với thế giới hiện thực mà chúng
ta đang sống. Nhưng thay vì thứ ngôn ngữ tỉnh táo và sáng tỏ của lí trí, Mai
Văn Phấn đã chọn lựa một ngôn ngữ đặc biệt - ngôn ngữ của giấc mơ. Có thể nói Biến tấu con quạ là một giấc mơ đầy ám ảnh. Trong giấc mơ ấy, quạ là biểu tượng
trung tâm, kết nối với hàng loạt chi tiết, hình ảnh, tượng trưng, tạo nên “bè
đệm hiện sinh” siêu thực của nó - thế giới của bóng đêm, chết chóc, sự hủy
diệt.
Là một hình tượng quen thuộc trong văn
hóa, văn học, quạ có nguy cơ trở nên công thức và cạn nghĩa, trơ nghĩa - nó
bị kí hiệu hóa. Mai Văn Phấn đã “đổ đầy” những cảm giác tâm linh
vào quạ (khái niệm tâm linh ở đây cần được hiểu theo nghĩa rộng) và biến nó
thành một biểu tượng thơ. Biến tấu con quạ là một tác
phẩm của thời hiện tại, đồng thời vẫn lưu giữ chiều sâu và vẻ đẹp bí ẩn từ cội
nguồn nguyên thủy của nó:
Con quạ khật khừ xuyên
đêm
Thảng thốt kêu
Lần đầu tiên tiếng động ra đi không vọng lại
Tái sử dụng cổ mẫu, Mai Văn Phấn tự đặt
ra cho mình một thách thức phải vượt qua - thách thức về sự lặp lại. Biến
tấu con quạ, do đó, vừa là một nỗ lực làm khác, làm mới của nhà thơ, đồng
thời, là cách để ông “liên văn bản” với một sức mạnh bí ẩn và lớn lao hơn trong
tâm thức sáng tạo - sức mạnh "vô thức tập thể". Bóng đêm là quạ và
quạ là bóng đêm. Khi bóng đêm cất lời, nói theo cách của C. G. Jung, “nó khơi
dậy trong ta một giọng nói to hơn giọng nói của chính ta… giải phóng trong ta
tất cả những sức mạnh cứu vớt vốn từ xưa đã giúp cho loài người tránh thoát
được mọi tai họa và thậm chí nén chịu được qua cái đêm dài nhất” .
Ra đời từ hai mươi năm trước, Biến tấu con quạ, lạ lùng thay, dường
như được viết cho/ viết về nhân loại
trong những ngày này, khi Việt Nam và nhiều quốc gia trên thế giới đang phải
đối mặt với bệnh dịch toàn cầu mang tên Covid 19. Bệnh tật, cái chết, sự ám ảnh
lây nhiễm và chết chóc đang rình rập khắp nơi. Thơ Mai Văn Phấn nói chung, Biến tấu con quạ nói riêng, đã can dự
vào đời sống hôm nay theo một cách khác thường, có tính tiên tri, điều mà có lẽ
chính tác giả của nó cũng không ngờ tới!
Vinh, 15/4/2020
L.H.Q
_________________
Jean Chevalier, Alain Gheerbrant (2016), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, nhiều người dịch, Nxb Đà
Nẵng, Trường Viết văn
Nguyễn Du, Hà Nội, trang 750 -751
S. Freud, C.G.Jung, G.Bauchelard,
G.Tucci, V. Dunes (2000), Phân tâm học và
văn hóa nghệ thuật, Đỗ Lai Thúy biên soạn, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội,
trang 82.

Tranh
của họa sĩ Silja Erg
Mai Văn Phấn
BIẾN TẤU CON QUẠ
Tử khí kéo ngọn bấc tới đỉnh trời
Con quạ rực sáng.
*
Khai sinh
Sau tiếng quạ kêu
Ra đi không cưỡng lại
Gói bọc được mở ra
Sự băng hoại không thể cất giấu
Thày lang đốt sách cuối vườn
Tân dược trong kho đều quá hạn sử dụng
Những phù thủy chịu hình phạt
Miệng bị đóng bởi những móc sắt
Khai sinh
Khi quả chuông rơi xuống bất ngờ
Chụp lên đầu người bõ già
Con cá nhảy vào đám mây tự vẫn
Buông ngang trời ngàn vạn lưỡi câu
Khai sinh
Mực đổ dưới chân và máu
vón cục ở yết hầu, phế quản
Viết một nét lên trang đầu
thấm suốt cả ngàn trang sách.
*
Bổ nhào từ đỉnh cao
Bằng đôi cánh sắc
Lấy tâm điểm xác chết
Chém toác bầu không
Gió hấp tấp không kịp băng bó.
*
Móc từ hốc mắt
những nhãn quan
Di ảnh là vật chứng
Mổ vào lưỡi
và kéo dài
Phơi dưới trời bài học khẩu ngữ
Bóc từng mảng thịt
Tháo rời tứ chi
Sổ tung lục phủ ngũ tạng
Hộp sọ vừa được dựng lên
Rêu đã phủ đầy
Không viết nổi những dòng bi ký.
*
Con quạ mơ
Mọi cái chết đều được sắp đặt
Sau tiếng quạ kêu
Ai đã tự nguyện nằm xuống.
*
Con quạ bay vào phòng
Một ngón tay giơ lên yếu ớt
Ý nói:
Đây là họng súng
Là lưỡi mác
Thậm chí cuốc thuổng
Thậm chí chính ngón tay rất cứng
Đúng hơn là đông cứng
Rồi băng đá
Rồi rữa tan.
*
Đừng đến gần bóng râm
Chúng là con quạ
Xõa cánh lúc hoàng hôn, rạng đông
Nanh vuốt bám gió
Xay nghiền lá khô
Bẻ những cành vượt
Nhà thơ trú trong bóng râm
Từng con chữ bị khoét mất mắt.
*
Trông
Sự vật
Trừng trừng
Bởi chớp mắt
Bóng quạ
Ập tới.
Bóng mình
Không cất tiếng
Sợ biến thành gà con.
*
Một số người trỗi dậy từ đám đông, khoác áo đen, mang mặt nạ đen. Vừa chạy, họ vừa đập cánh tay vào hai bên sườn. Đầu cố ngước lên. Bóng đen bay là là mặt đất.
*
Đậu trên chạc cây trong trạng thái bội thực và ngủ gật, con quạ mơ mỗi mẩu thức ăn đang nén chặt trong diều biến thành quả trứng. Đàn quạ con lũ lượt chui khỏi ngũ quan, lập tức sà xuống săn mồi theo bản năng của loài ăn thịt.
*
Những đau khổ tột cùng ngoái nhìn đời sống tưởng chừng đã chết. Áo khoác kêu thất thanh khi đi qua bàn tủ. Máy điện thoại im lìm ngủ. Chiếc kẹp ghim mở miệng cố giấu đi móng vuốt. Cán chổi móc vào tay người lao công, kéo chị ta về bên hố rác. Vành mũ trên đầu kêu thảng thốt, rồi cúi xuống rỉa hết mặt nhân viên bảo vệ. Không ai mở cổng. Nhiều người vẫn tìm được lối đi vào.
*
Những linh hồn thoát xác tìm cách quay về chiến đấu với loài quạ dữ. Sau những loạt đạn không gây sát thương, khói hương căng thành bảng, viết con chữ đầu tiên của bài học mới.
*
Đây là dòng cuối cùng trong một bản di chúc:
“Bắt đầu lễ Thiên táng lúc xuất hiện bóng quạ”.
*
Bóng đêm chui dần vào bụng quạ.
Cả chúng ta nữa, đang cồn cào cùng dòng sông đói khát. Những giọt nước đục tìm cách lọt qua khe vải. Mặt nước khổng lồ ghìm nén xao động, mong giữ lại bóng người. Bật que diêm rồi, vẫn nhớ ngọn bấc còn rất xa. Vung tay lên, nói to một mình trong bóng tối.
Con quạ khật khừ xuyên đêm
Thảng thốt kêu
Lần đầu tiên tiếng động ra đi không vọng lại.
(Rút từ tập thơ “Vách nước”, NXB Hải Phòng, 2003)
(Nguồn: Blog Lê Hồ Quang)

Tranh của Rafal Olbinski, Ba Lan