"thả”, Đóa Hoa Vô Thường và Thập Mục Ngưu Đồ (phê bình) - Liêu Thái
“thả”, Đóa Hoa Vô Thường và
Thập Mục Ngưu Đồ
(Đọc tập thơ “thả” của
Mai Văn Phấn, Nxb Hội Nhà văn, 2015)

Nhà thơ Liêu Thái và con trai
Liêu Thái
Có một điều chắc chắn nói ra bằng thừa: Thơ
không phải là Kinh. Nhưng trong một chừng mực nào đó, tinh thần của Thơ và Kinh
lại có điểm chung. Điểm chung đó không có một định dạng cụ thể nhưng chính cái
không cụ thể đó lại giúp người (cảm thụ) nhận ra được trong sự dẫn dắt của linh
cảm. Hay nói cách khác, giữa thơ và kinh có một giao điểm, nơi tâm hồn rung
ngân và mỗi tiết điệu phập phồng của nhịp thở chữ nghĩa, nhịp rung tư tưởng lại
mô phỏng cái giao điểm ấy. Điều đó như một sự buông thả của sự sống trên lộ
trình heo hút, bất định trở về nơi sinh ra nó trong một điệu thức không thể mô
phỏng. thả(*), tập thơ ba
câu của thi sĩ Mai Văn Phấn là một ví dụ.
Cũng xin nói thêm, trong dạng thức mô phỏng
lộ trình tâm hồn trên đường trở về nơi khai sinh và khai phóng qua thơ, không
riêng gì tác giả Mai Văn Phấn nắm bắt điều này. Nếu nói không ngoa thì có rất
nhiều thi sĩ Việt Nam đã làm điều này và cũng có không ít thành tựu. Nhưng thử
nghiệm, trải nghiệm và khai phóng bản ngã bằng một thể loại thơ tương đối mới
lạ theo cách của Mai Văn Phấn thì có lẽ chỉ riêng anh chọn lối đi này.
Mới đọc, rất có thể người đọc sẽ dễ bị nhầm
lẫn đây là một kiểu thơ Haiku (Hài Cú) Việt Nam. Bởi bố cục, cấu trúc vẫn có
chút gì đó na ná thơ Haiku của Nhật Bản. Bởi lẽ, nhìn vào tổng quan của rất
nhiều bài thơ trong tập thơ thả, vẫn thấp thoáng bóng dáng của
Haiku với giới hạn 17 âm tiết trở xuống, câu đầu tiên khai đề với một tiểu thể
như địa điểm, thời gian, sự vật, sau đó là câu dẫn luận phác họa tâm trạng của
thi sĩ để mở rộng đến đại thể ở câu ba mang tính chất tư tưởng, tổng quan vũ
trị hay triết lý về sinh tử… Hoặc ngược
lại.
Chạm
Mặt Đất
Cuộn mấy
vòng
(Lá Khô – thả)
Chim ri kêu
Rung hạt
sương
Tiếng sấm
(Đồng nhất – thả)
Vàng mã bén
lửa
Gió giật vội
Mang đi
(Nơi đầu gió – thả)
Rất nhiều bài thơ của Mai Văn Phấn, nếu không
đọc xuyên suốt tập thơ sẽ dễ bị ngộ nhận đây là một loại Haiku Việt Nam. Nhất
là khi đặt cạnh những bài thơ này với các tác giả Matsuo Bashô, Kobayashi Issa,
Yosa Buson…
Ao xưa
Con ếch nhảy
vào
Tiếng nước
xao
(Con ếch – Xuân Nhật – Bashô)
Ôi những hạt
sương
Trân châu
từng hạt
Hiện hình cố
hương
(…)
Nhưng cũng chỉ đọc đến đây, người đọc dễ dàng
nhận rõ sự khác biệt giữa thơ ba câu Mai Văn Phấn và thơ Haiku Nhật Bản. Yếu tố
sử dụng quí ngữ, nguyên lý Mùa và tính tuơng quan hình ảnh nhằm đi đến đối xứng
giữa tiểu thể và đại thể hầu như không phải là dòng chảy hay xương sống của thả.
Hay nói cách khác, từ cấu trúc cho đến dòng
chảy tư tưởng, tâm hồn bên trong tập thả đều có những điểm thấu thị lịch
sử của nó. thả mang hơi thở đương đại, phát biểu những gì đời thường, gần
gũi với con người nhất thông qua lăng kính của thi sĩ. Và đương nhiên ngôn ngữ
được chọn lựa một cách hợp lý, tương ứng với những mô thức của lý trí và tâm
hồn để đi đến một chuyển động nghệ thuật mà trong đó mỗi con chữ mang chức năng
biểu niệm, biểu cảm để vẽ một cách nhanh nhất từ người viết đến người đọc những
khoảnh khắc, chớp nhoáng của tâm hồn.
Lắc nhiều
hướng
Lá nửa non
Nửa già
(Lá ở nghĩa trang – thả)
Thắp hương
xong
Dựa lưng
Vào ngôi mộ
ông bà
(Viếng mộ ông bà – thả)
Trời
Tối rồi
Hãy nhắm mắt
(Nói với cỏ dại – thả)
Bao lấy
Mảnh vải
Bọc lồng
chim
(Thế giới khác – thả)
Trên một chừng mực nào đó, thơ cũng là một
dạng thoại đầu hay một dạng công án Thiền của thi sĩ. Hay nhìn từ góc khác, thơ
là một Mặc Khải trong ánh sáng vi diệu của Chúa mà ở mỗi con chữ lấp lánh ánh
sáng của con mắt ngạc nhiên nhìn vào thế giới để rồi sau đó đọc ra một thông
điệp nào đó của Thượng Đế mà ngay cả thi sĩ cũng chỉ cảm chứ không phân tích,
mổ xẻ gì được. Bởi càng mổ xẻ càng dễ rối mù và ngộ nhận.
Nhưng, trong lát cắt của lý tính, vẫn có
những điểm thấu thị, những con mắt thơ để cả người viết lẫn người đọc cùng
nhìn, cùng nhận biết và cảm thụ. Và sự cảm thụ này cũng không tránh được tình
trạng dông dài của luận lý, đôi khi dẫn đến rối mù, không đâu vào đâu. Và có lẽ
đó cũng chính là khởi điểm phát sinh lý luận, phê bình thơ, phê bình văn học
trong đám rối mù chữ nghĩa để định dạng một cách tương đối và giản lược nhất
cái sự cảm của người đọc. Không chừng, chính cái cảm của người đọc (gồm nhà lý
luận, phê bình) lại kéo ngược thi sĩ đi về phía của họ và thi sĩ đâm ra sợ hãi
với chính mình khi đứng trước giao lộ chữ nghĩa của các “cụ phê bình”. Chuyện
này xưa nay không hiếm!
Nhưng, vấn đề cốt lõi của thơ vẫn là tiếng
nói riêng, hơi thở riêng và cách biểu đạt riêng của thi sĩ chứ không phải những
định dạng của giới phê bình vì suy cho cùng thì các nhà phê bình cũng là một
loại bạn đọc “cao cấp” và chưa chắc họ đã viết được nửa câu thơ. Mà vấn đề cảm
thơ để đi đến nhận định đòi hỏi cả những tầng số phức cảm nhục thể, phức cảm
tâm hồn tương đồng giữa người đọc và tác giả. Bởi đây là những tín hiệu để nhận
biết và phân biệt giữa nhà thơ này với nhà thơ khác, thế hệ thơ này với thế hệ
thơ khác và dòng chảy, trường phái thơ này với dòng chảy, trường phái thơ khác.
Câu chuyện trở nên dông dài và lan man không
phải bởi lối tư duy rối mù sẵn có của người viết bài này mà bởi một lớp ánh
sáng lấp lánh trên đầu giọt sương chữ nghĩa mà mỗi giọt sương lại đóng vai trò
thấu kính hội tụ mọi tín hiệu, màu sắc, trạng thái của đời sống mà Mai Văn Phấn
đã thổi vào tập thơ thả. Nếu câu chuyện có dông dài thì ắt hẳn phải tìm ông nhà thơ
Mai Văn Phấn để hỏi tội hoặc đọc đến đây thì dừng và chuyển sang lướt web xem
một thứ gì đó tươi tươi mát mát… Không nhất thiết phải buột miệng “thằng này
viết tào lao!”. Vì nói ra điều đó với bài viết này chẳng khác nào phát biểu một
chân lý hiển nhiên!
Cũng giống như khi nói về những trạng thái,
sắc màu, tâm cảm, hiện tượng, sự kiện, sự ngẫu nhiên, tính nắm bắt, hay tính
Đốn Ngộ của Thiền cũng như ánh sáng Mặc Khải của Chúa thông qua thả
là một sự kì cục không thể chấp nhận được nhưng nếu không nói ra một cách thấu
đáo (cái nhận biết của mình) thì đâm ra ốt dột và thểu não không thể tin được.
Bắc song
song
Con đường
Tôi về nhà
(Cầu vồng – thả)
Đứng trên
ban công
Ngắm con
chuồn chuồn
Bay một mình
(Bay cao thì nắng – thả).
Con ếch lớn
Vọt khỏi
miệng hang
Đã chật
(Nghe tiếng giã giò – thả)
Trở lại với thả, ngoài những yếu tố
mà nhiều bạn đọc (gồm nhà lý luận, phê bình thơ) đã phát hiện khi đọc thơ Mai
Văn Phấn. Từ phức điệu của Đất; Cảm thức về Đất; Mối cảm hoài về Mẹ Đất, Tính
thiêng của Mẫu; Vẻ đẹp mùa màng; Sự đánh thức tánh linh từ gió; Phức cảm nhục
thể của cái đẹp bất toàn; Ý niệm về cỏ cây và sự chết; Sự biểu đạt của bóng
tối; Sự khai mở của ánh sáng… Có lẽ phải nói rằng thả là một bước đột phá,
thậm chí là một cuộc lột xác của chính tác giả cũng như của dòng thơ ba chữ vốn
âm ỉ chảy trong làng thơ bấy lâu nay.
Ở vấn đề thứ nhất, đây là bước đột phá và lột
xác của tác giả. Tính đột phá và sự lột xác này nằm ở chỗ thái độ và tâm thế
sáng tác của ông đi từ cấu trúc sang giải cấu trúc, đi từ thi pháp sang cởi bỏ
thi pháp (nói một cách mỹ miều thì có thể gọi là Thi Pháp Không Thi Pháp!), đi
từ chỗ suy tư để chọn lựa câu chữ, tìm mắt chữ, tìm điểm mở của thơ (có người
dung tục gọi là tìm cửa mình của thơ) để dấn sâu vào mạch cảm xúc, tìm sự thăng
hoa… Ở đây, có một sự buông thả, trần trụi đến lạ lùng sau một hồi suy tư,
chiêm nghiệm và tư lự. Câu chữ trong tập thơ ba câu thả này có thể nói là thơ
cũng được, gọi là truyện cực ngắn cũng không sai, gọi là khoảnh khắc chớp ảnh
bằng chữ cũng đúng mà gọi mỗi bài thơ là một bức tranh được vẽ công phu cũng
hợp lý.
Bởi lẽ, chính sự cởi bỏ thi pháp sau khi đã
dấn thân và tìm tòi một cách nghiêm mật với chữ nghĩa, thi ca, sự cởi bỏ này
không đồng nghĩa với buông tuồng mà là sự rũ bỏ. Và sự rũ bỏ này mang bóng dáng
Đốn Ngộ hay Mặc Khải. Mỗi câu thơ là một kiểu thoại đầu riêng của người thơ.
Khoảnh khắc của vũ trụ, không gian, thiên nhiên, vạn vật đi qua con mắt người
thơ và câu chữ là bóng của vạn vật phía bên trong hướng nhìn, từ phía của con
mắt nội tâm. Nhưng điều này không đồng nghĩa với con mắt nội tâm chưa từng thử
qua các loại lăng kính, từ áp tròng cho đến có gọng, từ viễn thị, loạn thị, cận
thị cho đến kính trong “vô vô sở thị”.
Bởi chính những thử nghiệm, trải nghiệm này
đã cho thi sĩ một sắc màu rất riêng để từ đó, sự vật, thế giới đi qua sẽ phản
chiếu, lưu ảnh và ghi dấu bằng cách riêng của họ. Những đám mây bông, những
buổi chiều đi thăm mộ ông bà và ngồi tựa lưng để rồi “vào mộ ông bà”. Nếu xét
về cấu trúc, đây đơn thuần là thủ pháp giáng dòng, vắt dòng, cách này người ta
đã làm rất lâu. Nhưng bỏ qua kĩ thuật, đi thắng vào nội tâm cũng như nhìn thẳng
vào trực giác của mình (người đọc/ người cảm thụ) thì thấy rằng “vào mộ ông bà”
là một thoại đầu hay một công án của đời người mà ở đó hàm chứa đủ các yếu tố
suy tư về sinh thành bại diệt hay sự trỗi dậy của hạt mầm bên dưới những tầng
lá mục của một cội phổ hệ, huyết thống để từ đó nhìn rộng ra thế giới bên ngoài
với đầy đủ ý nghĩa của cái chết và sự sinh trưởng từ bên trong cái chết, trùng
trùng lớp lớp…
Cây non
Nứt từ khe
núi
Lòng đá mềm
(Đá – thả)
Đám mây
Bay
Qua mái nhà
(Mở vòi nước – thả)
Vòm lá mỡ
màng
Gọt quả lê
Cắn miếng to
(Mưa ban mai – thả)
Mải đọc sách
Chỉ nghe
Tiếng ngân
cuối
(Chuông chiều – thả)
Nhìn
Cánh bèo
Da diết
(Con nhái bén – thả)
Vừa chín
Hoàng hôn
Thẫm
(Luộc khoai – thả)
Đứng trên giác độ cảm thức về luân hồi, về sự
sinh trưởng cũng như tiết điệu thổn thức của mầm xanh đang trên đà cảm thụ ánh
sáng, cảm thụ sức nóng của mặt trời sự sống, có lẽ xuyên suốt tập thơ thả,
đọc bất kỳ trang thơ nào cũng gặp cảm thức này. Điều đó có thể phát triển theo
nhiều chiều kích và tầng bậc khác nhau. Ở bài thơ này có thể cảm ngay bằng trực
giác nhưng bài thơ khác lại là một mảng ánh màu thoáng qua trong đó hàm chứa
những nhát cọ mờ nhòe phản ánh về vấn đề đó mà người đọc phải trong nghiền ngẫm
kết hợp sự thúc giục của linh cảm. Điều này có vẻ như chạy xuyên suốt tập thơ thả.
Và đến đây, một vấn đề khác được đặt ra: Liệu
thả
có trở nên quá thường tình, như những trần thuật đời sống bằng ngôn ngữ thơ
trong lúc thi pháp đã bị loại bỏ? Câu trả lời là hoàn toàn không phải vậy. Mà
vấn đề lại liên quan đến sự lột xác, một lần nữa, sự lột xác của chính tác giả
cũng như sự vượt thoát của dòng thơ ba câu, làm nên diện mạo thơ ba câu Mai Văn
Phấn, không lẫn vào đâu được lại nằm trong câu hỏi và câu trả lời này.
Điều này chạm đến ý niệm thả, thả thơ, thả chữ, thả sách, thả những hệ lụy cuộc sống, thả
quyền lực, thả sự cố chấp, thả luyến ái, thả những hệ lụy huyết thống đã ăn mòn thành định kiến, thả những khối đá tảng tư tưởng đã chất
nặng trên đôi vai người cầm bút, thả
sự ràng buộc không đáng có với chữ nghĩa…? Cụ thể là thả gì? Có thể nói rằng
điều dễ cảm nhận, dễ nắm bắt nhất khi cầm tập thơ thả trên tay và bắt đầu đọc
là người đọc phải thả tâm hồn mình
thật rỗng rang và tuyệt nhiên tránh để những kiến chấp, biên kiến chữ nghĩa níu
mình, trói buộc con chữ trong trang sách với định kiến bản thân. Hơn nữa, thả
là một thông điệp mà chính tác giả đã gửi qua bưu điện câu chữ, địa chỉ đến lại
là căn nhà bản ngã thi sĩ, rằng hãy buông thả mọi kiến chấp về sự vướng lụy của
đời sống, kể cả kiến chấp về sự buông thả, hãy trả tự do cho con chữ và thơ.
Chính con chữ và thơ sẽ nói lên tiếng nói riêng của nó. Mặc dù có thể nó sẽ không
nói gì cả và không giống ai cả nhưng chính sự im lặng, dị biệt của nó lại là
lăng kính phản ánh tương quan thế giới, xã hội mà thi sĩ đang sống, đang gặm
nhấm niềm vui và nỗi buồn trong từng sát na, từng giây, từng phút…
Quên
Gọi ông
Hoa nở
(Cháu mãi chơi – thả).
Trực giác “bông hoa nở” sau tiếng gọi của
“cháu” ở trong vườn cỏ hồn nhiên của tâm thức anh nhi bị bỏ quên ở “quên” mà
người ông tự cảm nhận trong một sát na làm người đọc giật mình bởi niềm hạnh
phúc cũng rất trẻ nít, rất tuổi thơ như chưa hề vướng bụi trần thế này. Và điều này cũng làm người đọc giật mình nhìn
lại cấu trúc phi cấu trúc rất ư lạ lẫm của thả. Bởi ở đây, ranh giới giữa thi
pháp đặt đề và thi pháp triển thơ hoàn toàn bị xóa nhòa. Tựa thơ cũng là một
câu thơ và ngược lại, bài thơ cũng là một cái tựa khi đọc ngược Hoa nở - gọi
ông – quên – cháu mải chơi. Mà chuyện
này không chỉ gặp ở đơn lẻ vài bài thơ trong tập thả. Toàn bộ tập thơ đều
có cấu trúc mà tôi tạm đặt là cấu trúc vòng tròn. Nghĩa là đưa bất kì câu thơ
nào lên làm tựa vẫn phản ánh bài thơ rất sắc cạnh nhưng cũng rất tròn trịa, mềm
mại. Ngược lại, cả bài thơ là một vòng tròn, ở đó, đứng trên bất kì điểm nào
cũng nhìn thấy được những điểm khác nếu cởi bỏ mọi ý niệm về không, thời gian.
Đến đây, một vấn đề khác lại xuất hiện, cả
một tập thơ là một vòng tròn của sự thả, buông bỏ và để mọi sự phát
triển theo qui luật tự nhiên của nó, kể cả tư tưởng và chữ nghĩa. Đọc xong tập
thơ, một cảm giác rất lạ là lại giống như vừa mới nghe xong Đóa Hoa Vô Thường
của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn hay vừa bước vào một phòng tranhh của một thiền
sư. Và trong phòng tranh ấy, bộ Thập Mục Ngưu Đồ chiêu dẫn người đọc tranh, rồi
thưởng ngoạn tranh, sau đó xem tranh, nhìn tranh, thấy tranh, để cuối cùng là
có thấy một mục đồng đang cố buộc một con trâu lung vào dây, buộc rất khó khăn,
đến gần trâu, làm quen, vuốt ve trâu, buộc trâu, lại cởi dây buộc của trâu, leo
lên lưng trâu ngồi vắt vẻo thổi sáo, cả người và trâu về nhà và... Bức tranh
thứ mười – bức cuối cùng là cả người và trâu đều là một vòng tròn trắng, không
thể nhận biết đâu là trâu, đâu là mục đồng, đâu là vòng tròn.
Cũng xin nói thêm, đây là những cảm nhận đầy
võ đoán và hậu đậu của một độc giả trong hàng triệu độc giả đã đọc thơ của tác
giả Mai Văn Phấn. Và khi đọc xong thả, có một vòng tròn như thế giữa
người thơ, bìa thơ, ruột thơ, câu chữ thơ, ý niệm thơ, tư tưởng thơ, bối cảnh
xã hội lúc tập thơ ấn loát và cả người đọc, tác giả, tác phẩm như một vòng tròn
của buông bỏ và im lìm lắng nghe tiếng nói từ sâu thẳm đất mẹ, cỏ cây, hơi thở
và không gì cả!
Quảng Nam, 6/01/2016
L.T
________
(*) Tác giả Mai Văn Phấn không viết
hoa tên tập thơ.
