Thời tái chế, trải nghiệm
cộng đồng
(Nhân đọc “Thời tái chế”
của Mai Văn Phấn - Nxb Hội Nhà văn, quý IV/ 2018)

Nhà văn Nguyễn Hiệp
Nguyễn Hiệp
Trải
nghiệm cộng đồng, trải nghiệm dân tộc. Nó đi qua cái xảy ra thực, xảy ra dị thường,
thứ dị thường đã trở nên bình thường, “Thời tái chế” của nhà thơ Mai Văn Phấn
lôi cuốn tôi, là một trường ca thích đáng được chờ đợi sau chừng ấy những gì khổ
đau, mọi chuyện có vẻ hợp lễ nhưng lại ẩn chứa bệnh hoạn. Trường ca “Thời tái chế”, có thể định danh như vậy vì nó là hành trình nội tại của cộng đồng tôi đã
sống trong đó, nhà thơ Mai Văn Phấn đã sống trong đó và bạn đọc cũng đã từng sống
trong đó, chúng ta biết rõ hai tiếng “tái chế”. Sự nhận diện đau rát này như một
bông hoa máu, bông hoa tim, bông hoa kinh hãi, bông hoa quằn quại nở bung, nở
tung nở ngập hơi thở, nở tràn đầy và ngập ngụa ám ảnh.
“Tôi lớn
lên trong lẫn lộn đúng sai, tỉnh táo và lú lẫn, tìm đường và lạc lối, u mê và
khát vọng, hiện đại và tiểu nông, quảng đại và cò con, tổng thể và đơn chiếc,
cao thượng và thấp hèn, văn minh và lạc hậu…” (Chương I)
Trường
ca đã mở đầu như thế, tức là bắt đầu hành trình từ mô phỏng thực tại kết hợp với
sự phê phán, nó đưa người đọc là tôi ra xa hiện thực hơn nữa, theo một hệ quy
chiếu phức tạp, vừa là mã của phong cách vừa như định hướng của một kiểu diễn ngôn qua toàn bộ
lịch sử, ở đó cái được thể hiện trở thành cái thể hiện. Một kiểu hoán dụ đầy cực
tính!
“Ký ức
đã đến, chiếm lại không gian dĩ vãng…” , “máu từng chảy loang từng vũng giữa
sân đình…” (Chương II), những câu như vậy chảy tràn trong “Thời tái chế” không
theo logic truyện kể mà là diễn ngôn của truyện kể, nó gây sự cảm động mãnh liệt,
tác giả khá thành công trong việc đẩy hiệu quả như thực này lên đến giới hạn của
nó, nó không để cho giấc ngủ của người đọc trở thành dòng sông sâu lắng, nó khuấy
động, nó đánh thức, nó gợi lại, nó chỉ ra nhưng hoàn toàn không nằm trong tình
trạng hỗn loạn.
Chương
III: “Sân khấu”. Sau chương I: “Điểm nhìn” và chương II: “Thẫm đỏ”, chương III
chính là nguồn cơn tạo sự xúc động và cảm hứng để tôi viết bài viết nhỏ này.
“Giấc mơ sân khấu trống rỗng”, một viễn cảnh của điều viện dẫn phía sau nhưng
nó đã gói gọn, hàm chứa trong nó như một mã báo trước và liên quan tới nhiều
liên văn bản. Tới đây, trong chương Sân khấu này, ta bắt gặp một mã không có thực
tại, nó cũng không hẳn phê phán về cái gọi là ảo tưởng không tưởng, những điều
cay đắng mà dân tộc, mà cộng đồng, mà từng cá nhân trải qua, nó rõ hơn và sâu
hơn là một diễn ngôn thực tại, nó là một loại diễn ngôn rất chân thực, như tôi
đã nói ở trên, tức là cái được thể hiện trở thành cái thể hiện.
Nếu xét
về ngôn ngữ, cảnh 1 đã như một ám chỉ ở xã hội nào, ở cộng đồng nào, ở thói
quen nào… “Mỗi khán giả tự dựa vào kinh
nghiệm bản thân để đoán biết nội dung vở diễn. Đây là một cuộc họp, đợt chỉnh huấn,
buổi hội thảo, phổ biến nghị quyết, phân công nhiệm vụ, một vụ ăn chia, cuộc đấu
tố, ngày đọc quyết định, nói chuyện thời sự, cuộc thanh trừng, chào đón đại biểu
cấp trên, ca trực cấp cứu, cuộc bỏ phiếu kín…” Những từ ngữ rỗng như sân khấu rỗng lại mở màn
cho một vở kịch rỗng.
Kịch hay
mơ? Mơ hay kịch? Dối trá hay là thực? Sự hoang tưởng không tưởng vừa mở màn đã
dâng cao trào, nó làm cho người đọc là tôi phải rơi vào tình trạng nghi vấn
liên tục, vô số giọng nói, vô số ý thức, vô số thực tại hiện lên, vang lên, tiếng
động tạo chuyển động và chuyển động tạo tiếng động, từ đó sự rỗng không hình
thành như một sự thật. Sự rỗng không từ diễn ngôn trở thành hiện thực.
Cảnh 2,
“Chủ toạ mặt mày quan trọng, ăn mặc gần gũi, gọn gàng. Sau hiệu lệnh, mọi người
lặng lẽ đi ra sân khấu, không ai chạm vào ai, tư thế nghiêm trang, mắt nhìn thẳng…” Đọc tới đây tôi chợt nhớ một chi tiết bi hài
của ai đó, một chuyện cười ra nước mắt của ai đó, “Thẳng hàng, thẳng! Ngắm
trăng, ngắm!” Một kiểu nô lệ hình thức, cố tình trầm trọng để che giấu cơn ói mửa,
cơn ngủ gục, cơn “soi gương và tỉa lông mày”, cơn la ó cho một vở diễn quá dỏm,
quá dở, vụng về…
Tới cảnh
4 thì sân khấu chia đôi âm dương, người âm “nhìn sang trần gian bỗng toát mồ
hôi”, “những dấu chân lầm lạc chồng chất lên nhau, bôi xoá, rồi tiếp tục lầm lạc.
Rồi lại bôi xoá. Những cuộc cách mạng lật đổ áp bức, cường quyền. Một vài người
làm cách mạng thành công đứng ra cai trị vương quốc quá lâu lại thành kẻ độc
tài, tha hoá.” Người đọc sẽ không gặp diễn
tiến và tình tiết mà mình đang tò mò như với một sân khấu thông thường mà những
điều diễn ngôn gợi lên sẽ được chính từng người đọc “xem” và khóc cười với
chính mình, chính những gì mình đã trải qua, gia đình mình, gia tộc mình, làng
xóm mình, dân tộc mình đã trải qua. Tự mỗi người sẽ sắp xếp thành tình tiết và
thời gian trải nghiệm.
Cảnh 5,
“Vị khán giả bị kích động cũng đã ra về trên chính con đường anh ta vừa đi.” Chối
cãi, cự tuyệt hay gì gì nữa thì chính mình cũng đã từng song hành, từng đồng tồn
tại cùng với kẻ “tự thú lúc hành hung mình là kẻ mạnh nhất”. Một cảnh trên khấu
chẳng về cái gì hết, nó là một vòng luần quẩn, bế tắc, loay hoay giữa hắn và
mình, giữa mình và hắn, giữa tội phạm và đồng phạm, giữa tôi và chúng ta, giữa
những người nhân danh xử “tử tù máu lạnh” và sự hụt hơi trong cố gắng rạch ròi
giữa sân khấu và đời.
Chương
IV: Lối rẽ. Ta hãy nghe một đoạn thoại:
“-Đã xa
dần nanh vuốt của cái ác, em ơi đừng sợ!
-Có ai
đuổi theo ta không?
-Mình
đang đi trên con đường của máu đã chọn
-Con người
sao quá nhiều sai lầm.
-Đám
đông thường bị dẫn dắt bởi những kẻ tham lam, ác hiểm.
-Chúng
nhân danh lý tưởng, dân tộc, nhân danh lẽ phải…”
Trường
ca đến đây đã từ bỏ chức năng mô phỏng của nó, cái ý thức nhị nguyên thiện ác của
con người cũng bị từ bỏ nốt, chỉ còn sự sợ hãi, sự chạy trốn. Những câu thoại
đã tạo thành một hình ảnh ngụ ý…
Tôi
thích con số 9 mang tính biểu tượng của 9 chương trong tác phẩm này, là một số
đại lão dương kết thúc một chu kỳ và cũng là điểm khởi sinh cho một chu kỳ mới;
nó phù hợp với đề tài, phù hợp với thông điệp và cả phù hợp với thời điểm xã hội
hiện tại. (Điểm nhìn, Thẫm đỏ, Sân khấu, Lối rẽ, Đồ tể, Đối thoại, Mô hình, Giấc
mơ, Kết nối, đó là tên của 9 chương thể hiện sự khép lại và bắt đầu chu kỳ mới).
Cấu trúc tác phẩm trường ca này, theo quan điểm tiếp nhận của tôi, là một ý ngầm
ẩn trong/dưới văn bản, được coi như một ngôn ngữ khác, kỳ thực tự nó là một lý
giải, một lời nói.
Từ
chương V trở về sau, thời gian trải nghiệm của cộng đồng được đề cập xuyên suốt
từ quá khứ cho đến hiện tại. Cũng không hẳn là phép phân loại, nó là tiến trình
động.
Ở chương
V, trong 7 loại đồ tể mà tác giả điểm mặt, dù hữu hình hay vô hình, dù đằng đằng
sát khí hay núp dưới chiếc mặt nạ hoa, dù đang còn ở thế giới này, đang ngồi
bên mâm cơm gia đình với vẻ tự mãn hay đã qua thế giới bên kia, dù ngu muội mà
trở thành đồ tể vô ý thức hay là người thực hiện ý đồ thâm độc đã được báo trước…,
nhưng tất cả đều cùng thực hiện công việc huỷ diệt. Trong chương này, tôi đặc
biệt có cảm xúc với “Đồ tể 6” và thực sự đồng cảm với tác giả.
“Những gã đồ tể của tư tưởng bắt chúng ta đi đường thẳng không bao
giờ được rẽ. Nhưng thế giới tự nhiên với bao nhiêu biển hồ, núi non, ghềnh
thác. Không thể tồn tại một con đường thẳng tắp bất tận chạy trên mặt đất. Sự
tiến hóa của con người nhiều khi nằm ở những khúc cua, những nền văn minh được
khởi sinh thường ở ngã rẽ. Những tên đồ tể đã biết và phục sẵn ở đó. Chúng
nhanh chóng thủ tiêu những ai chúng coi là mờ ám, lầm lạc…”
Lạnh lùng. Trực diện. Tôi ít khi nào ảo tưởng về tính khách quan
nhưng tính tự trị của đoạn văn bản trường ca này giúp tôi tin, ngôn ngữ không
vòng vo ở đây đã phá hết các hàng lan can ngữ nghĩa không cần thiết khác.
Chương VI: Đối thoại được tác giả chuyển hẳn thành những luận đề,
những luận đề quan trọng của một dân tộc là “Độc lập, tự do, hạnh phúc”, trong
đó các đối tượng tiêu biểu đã tự cất lên tiếng nói của mình. Tôi cho rằng tác
giả khá thâm sâu khi loại bỏ tư cách chủ quan của văn bản, như tôi đã hơn một lần
đề cập là sự tự thể hiện. Họ nói. Những người đã chết nói. Những người lính ở
hai chiến tuyến nói. Những người nông dân, thợ thuyền nói. Nhân dân nói. Sự thật
lịch sử ấu trỉ, tranh sáng tranh tối một thời được phơi bày mà không phải chối
cãi.
Chương “Mô hình” trong tập trường ca này là một chương ẩn ý sâu
xa, quả thật hai tiếng “mô hình” đã đủ nói về một xã hội na ná với một xã hội
nào đó. Điều gì đó thuộc về hồn cốt không thật. Ngôi nhà khuôn mẫu, vỏ trái cây
khuôn mẫu, việc trồng cây khuôn mẫu, trật tự an toàn xã hội khuôn mẫu, cách
phát ngôn khuôn mẫu… Có gì đó như là sự chuyển động thuần tuý mà tuyệt nhiên
không phải là sự sống. Sự sống đã không được tôn trọng.
Nếu như máu là một ám ảnh lớn trong toàn bộ tác phẩm thì càng về
cuối máu lại hàm chứa một nghĩa khác, dòng sông máu chảy trườn qua tác phẩm, ở
“lưu vực” của cơn trải nghiệm khủng khiếp này, máu là biểu tượng của sự sống, của
huyết thống, của giống nòi, là quyền uy linh thiêng, nó cần được trả lại, phục
hồi lại, nhận lại như nó vốn như thế.
Nếu vẽ
ra một sơ đồ của trường ca này thì những cái có, không, hiện, ẩn, nhị nguyên và
hư huyễn cứ xen kẽ nhau, đôi chỗ lẫn khuất hoặc cùng chứa trong nhau. Tôi nhìn
vào đó, một sơ đồ ngập tràn những cảm thức, một sơ đồ nội tại của hành trình
dân tộc, nó còn hơn cả sự phán xét đơn thuần, nó là sự phủ nhận trọn vẹn, sâu
xa, tô đậm cái trống rỗng.
Tôi
không có ý định phân tích hay phê phán tác phẩm trường ca “Thời tái chế” của
Mai Văn Phấn, tôi chỉ viết những dòng cảm nhận và cũng là để trả lời một vài ý
kiến cho rằng trường ca này cắt đứt với văn chương truyền thống. Thật ra cả phần
hồn cốt, sắc thái lịch sử và cả hình thức thể hiện vượt lên, phá vỡ những quy định
của tác phẩm, theo tôi, là rất dân tộc, rất truyền thống, đến lúc chúng ta phải
nhìn nhận lại những khái niệm đã bị bóp méo một thời . Nếu có gì khác chăng thì
chỉ là “cách tự lột xác kiêu hãnh đớn đau của con đại bàng… Dám nhìn thẳng vào
mặt trời không chớp mắt, không sợ bị đốt mù”. Nhà thơ Mai Văn Phấn vì thế mà trở thành tác
giả ưu tiên đọc trước tiên của tôi trong những cây bút thơ đương đại Việt Nam.
12/2018
N.H


