Khuynh hướng cách tân trong thơ Việt Nam sau 1986 (tiểu luận) - Mai Văn Phấn
Khuynh hướng cách tân trong thơ Việt Nam sau 1986
Tác phẩm của Graziano Locatelli
Mai Văn Phấn
Nơi mũi tên rơi, mặt đất rung lên đẩy ta tới một đích khác
Mai Văn Phấn
Thơ
Việt Nam đương đại tương đối phong phú và đa dạng. Về phương diện nào đó, có
thể so sánh với thơ một số nước trong khu vực và trên thế giới. Sau năm 1986,
bên cạnh những khuynh hướng bảo tồn thơ truyền thống, thơ Việt đã xuất hiện
trào lưu mới thường được gọi chung là “Thơ cách tân sau năm 1986”.
Mở
đầu cho sự cách tân thơ của thế hệ sau năm 1986 tại Việt Nam, theo tôi, có thể
nhắc đến ba gương mặt thơ tiêu biểu: Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Lương Ngọc và
Dương Kiều Minh. Thơ họ đã khai mở, thôi thúc một số cây bút cùng thời đi tìm
giọng nói của thế hệ mình, thời đại mình. Kế tiếp sau ba tác giả vừa nêu, đến
nay đã có thêm một số nhà thơ sáng tác trong hệ hình thẩm mỹ mới, khác biệt với
những thế hệ trước đó, tạo nên một khuynh hướng thơ cách tân toàn triệt. Họ chủ
yếu là thế hệ sinh ra vào thập kỷ 50 và 60 của thế kỷ XX. Tác phẩm của họ thực
sự đã có vị trí xứng đáng trong lòng người đọc với những đóng góp đáng kể vào
đời sống văn học. Ở đây, tôi tập trung vào tác phẩm của các tác giả tiêu biểu
của thế hệ này như Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Lương Ngọc, Dương Kiều Minh, Trần
Tiến Dũng, Nguyễn
Đức Tùng, Inrasara, Nguyễn Bình Phương, Giáng Vân…
Vậy, thơ của các nhà thơ
tiêu biểu cho thế hệ này đã có những
cách tân như thế nào? Họ đã kết hợp hài hòa giữa cái
“Tôi” trong Thơ Mới, tính “đại tự sự” trong thơ thời chiến với tâm thức mở
ra nhiều chiều của đời sống văn minh hiện đại. Sự kết hợp ấy được đẩy xa một
khoảng cách bằng những ẩn ức, trực giác, mê sảng…, bằng những mô-đun, lát cắt,
biểu tượng…, để người đọc nhìn thấy nó trong một thế giới thơ mới lạ. Các nhà
thơ này đã kết hợp được những tinh hoa của các trào lưu thơ ca phương Tây với
những quan niệm về tâm linh trong văn hóa phương Đông từ cổ đại đến hiện đại,
nhằm tạo nên những diện mạo thơ độc đáo, đa dạng và khác biệt ngay với những
bạn viết cùng thế hệ.
Đề
tài của các tác giả này bao gồm những vấn đề từ vi mô đến vĩ mô của đời sống
hiện đại, những góc khuất trong tư tưởng, tình cảm con người, ý thức và vô thức... Chúng thể hiện những cách nhìn
nhận, đánh giá tỉnh táo chân xác các giá trị của lịch sử, cật vấn những thân
phận người, về con đường, vị thế của dân tộc, của đất nước khi hội nhập. Tác
phẩm của mỗi nhà thơ cách tân xuất hiện trước bạn đọc như một thế giới thơ độc
đáo, riêng biệt, đôi khi dị biệt, và góp phần làm phong phú thêm đời sống văn
học chúng ta.
Trong
khuynh hướng đó, ta thấy thơ Dương Kiều Minh mang hơi xuân từ những cánh đồng trong tập thơ đầu tay “Củi lửa” (Nxb Tác phẩm mới, 1989). Ta
cũng thấy không gian tượng trưng kết hợp với những lát cắt, những biến hóa hai
chiều của hội họa Lập thể (Cubism)
hay Dã thú (Fauvism) trong ba tập thơ
của Nguyễn Lương Ngọc: “Từ nước” (Nxb
Hội Nhà văn VN, 1991), “Ngày sinh lại”
(Nxb Thanh niên, 1991), “Lời trong lời”
(Nxb Văn học, 1994). Các nhà thơ đó đã chủ ý tạo những đường biên mờ nhòe, đảo
lộn mọi quy ước, hoặc mở những khoảng không bất ngờ, gây sửng sốt như trong thơ
Nguyễn Đức Tùng, Nguyễn Bình Phương... Thêm vào đó, họ cũng biến đổi hệ thống
ngôn ngữ thơ một cách vi diệu để tạo sinh nghĩa mới, làm gia tăng khả năng biểu
đạt của tiếng Việt như trong thơ Trần Tiến Dũng, Inrasara…
Đặc
biệt, tôi muốn nhấn mạnh đến sự ra đời tập thơ “Sự mất ngủ của lửa” (Nxb Lao động, 1992) của nhà thơ Nguyễn Quang
Thiều. Tập thơ này, trước hết khơi dậy nỗi khao khát về những cuộc lên đường,
khát vọng giải phóng khỏi những định chế cũ, quan niệm cũ. Thơ Nguyễn Quang
Thiều định hình một phong cách riêng, kích hoạt sự cách tân của nhiều nhà thơ
cùng và không cùng thế hệ với ông. Ông xứng đáng được tôn vinh là một trong
những thi sĩ tiên phong của dòng chảy thơ cách tân sau 1986.
Để
xác định nhà thơ có nằm trong hệ hình thơ cách tân hay không, trước hết cần
nhìn vào kết cấu không gian trong mạch thơ, bài thơ cụ thể. Tôi xin được trở
lại với hệ hình Thơ Mới với cái “Tôi” chủ đạo, quán xuyến tinh thần sáng
tạo; tiếp đến là những “đại tự sự” trong thơ thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ, mà
thực chất, vẫn là hệ hình thơ Hiện thực và Lãng mạn được nâng tầm, trên tinh
thần lấy hiện thực làm điểm tựa để dồn thổi cảm xúc vào đó, đồng thời để mô
phỏng, tái tạo một hiện thực thơ giống như nó vốn có, nhưng mang tinh thần chủ
quan và cảm xúc của người viết. Phương pháp này phù hợp với công việc tuyên
truyền hơn là việc “mở khoá” để người đọc bước vào không gian nghệ thuật sáng
tạo của nhà thơ.
Chủ
nghĩa Lãng mạn bắt đầu xuất hiện tại châu Âu vào những năm 1790 và khởi từ thi
ca, với những nhà thơ tiêu biểu
như A. Schlegel, F. Schlegel, F. Hölderlin, J.W. Goethe (Đức); W. Wordsworth, S. T. Coleridge, W. Blake (Anh); V. Hugo,
Lamartine,
A. de Musset,
A. de Vigny,
Gérard de Nerval
(Pháp); A. Pushkin, M. Lermontov (Nga)… Như vậy, thi ca của chúng ta đang
trở lại cái khởi nguồn Lãng mạn của phong trào Thơ Mới từng diễn ra ở phương
Tây từ hai thế kỷ trước. Nhìn lại khoảng cách giữa thơ Lãng mạn và Hiện thực,
thậm chí cả thơ được sáng tác theo phương pháp Hiện thực Xã hội chủ nghĩa sau
này, giữa chúng đều là những ranh giới mờ nhòe và linh động. Thực tế cho thấy,
“bóng râm” của Hiện thực và Lãng mạn ấy hiện vẫn tiếp tục ảnh hưởng, che phủ
nền thơ đương đại chúng ta. Có khá nhiều tác giả xuất hiện sau 1986, cả thế hệ
sinh ra vào thập kỷ 80, 90 của thế kỷ XX vẫn chưa thoát khỏi hệ hình thi pháp
này. Khá nhiều tác giả có nỗ lực đổi mới, nhưng do chưa nắm được bản chất
chuyển động của các trào lưu, khuynh hướng nên tỏ ra lúng túng, không tìm thấy
đường ra. Có tác giả đổi mới thơ bằng cách làm “khô” cảm xúc khi viết, đó là
một sai lầm tai hại. Có tác giả lại cố tình bẻ vụn, hoặc kéo dãn hình thức câu
thơ cho lạ mắt mà không chú ý đến thiết lập không gian. Quan niệm ấy đã dẫn họ
đến bế tắc, thất bại.
Thi
ảnh trong hệ hình thi pháp Hiện thực và Lãng mạn thường ở dạng “hình học
phẳng”, trong khi đó thi ảnh trong hệ hình thi pháp cách tân thường ở dạng
"hình học không gian", chúng tạo thành không gian thơ đa chiều như
những “khối lập phương”. Những thi ảnh trong “khối lập phương” ấy có thể được
xuất hiện ở bất kỳ chiều nào trong không gian nhiều chiều của một bài thơ. Và
dĩ nhiên, chúng không nằm trên một mặt phẳng như những hình ảnh quen thuộc mà
ta thường dễ nhận biết, dễ tiếp cận như trong hệ hình thi pháp truyền thống.
Các nhà thơ cách tân đã mang đến cho ta một từ trường mới, ánh sáng mới, chứ
không chỉ là những hình ảnh “đèm đẹp” cụ thể, dễ nhận biết. Mọi hình ảnh được
nhắc đến trong câu thơ, bài thơ theo khuynh hướng cách tân đều nằm trong áp
lực, trong cách tạo áp lực của người viết. Người đọc tiếp cận văn bản thơ với
tâm thế và cảm nhận giống như người nghe một bản nhạc không lời, thay vì nghe
một ca khúc thông thường có giai điệu gắn với ca từ có nội dung đơn giản, dễ
hiểu.
Trong
trường hợp thơ cách tân, nhà thơ và người đọc đều bình đẳng và đồng sáng tạo.
Người đọc được nhà thơ dẫn dụ, khơi mở vào không gian thơ. Họ có cảm giác tự do trong không gian đa tầng mở ra
nhiều hướng. Xin dẫn
hai câu thơ trong bài “Gọi hạc” của
nhà thơ Nguyễn Lương Ngọc:
“những
con đã sinh ra thì đã chết
những con chưa chết thì chưa sinh ra”.
Người
đọc sẽ tiếp nhận câu thơ trên bằng kiến thức, kinh nghiệm, ẩn ức và những khao
khát của chính họ. Thậm chí những hình ảnh lạ kỳ, bí ẩn có thể bất ngờ xuất
hiện trong tâm trí người đọc, điều mà chính tác giả của bài thơ cũng không định đoán được.
Cách
tân ngôn ngữ, hình ảnh, nhịp điệu trong thơ bắt nguồn từ tính đa chiều, đa
tuyến tính trong kiến tạo không gian. Đó cũng chính là ngôn ngữ của cái “Tôi”
thời hiện đại khác biệt với cái “Tôi” trong Thơ Mới. Khác hẳn với những cái
“Tôi” trong “đại tự sự” trước đó, các nhà thơ cách tân sau 1986 thường dùng
hình thức trữ tình phổ biến là tự sự-độc thoại trong tác phẩm của mình. Như
trong bài “Không ai gọi tôi trở dậy vào
buổi cuối thu”, nhà thơ Dương Kiều Minh viết:
“Không
ai gọi tôi trở dậy vào buổi cuối thu
tôi nằm viên
mãn – chiếc lá vàng dưới hàng song thụ
Nếu mẹ tôi mà
biết
Liệu mẹ tôi
trách cứ các người”.
Trong
đoạn thơ trên, một cái “Tôi” hóa nhập và hòa nhập vào thiên nhiên làm hình ảnh
người mẹ của nhà thơ thấp thoáng đâu đó bỗng hiện hữu thành mẹ thiên nhiên, mẹ
của vũ trụ để bảo vệ và che chở con người bằng tình yêu bao dung, rộng lớn của
Người.
Bên
cạnh đó, trong thơ cách tân sau 1986, những hình ảnh luôn biến ảo dị thường,
vượt xa những liên tưởng thông thường, trở thành những hình ảnh phúng dụ, ám dụ
người đọc, gợi mở cho họ liên tưởng tới những điều lớn lao, hệ trọng trong đời
sống xã hội, thế nhân. Hình ảnh con bống
trong bài thơ “Dưới trăng và một bậc cửa”
của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều là một dẫn chứng về sự hóa thân, chuyển đổi chủ
thể trong mục đích sáng tạo:
“Con
bống cái chửa hoang ngơ ngác và thường chết ngất...;
Hai
cánh tay tôi – hai vây cá rách tướp
Dìu nỗi sợ chửa
hoang đi tìm ổ đất buồn...”
Đến
đây, tôi muốn dẫn chứng cụ thể hơn về
cách tân ngôn ngữ, hình ảnh, nhịp điệu thơ, đặc biệt cách xây dựng đa tầng
không gian trong bài thơ “Thời gian của
một ngày” của Nguyễn Đức Tùng, một nhà thơ hiện định cư và sáng tác tại
Canada. Nguyên văn bài thơ như sau:
Thời gian của
một ngày
Bạn nghĩ một
đời bắt đầu từ lúc sinh ra
Đến khi chết.
Một ngày bắt đầu từ sáng
Đến khi bạn lên
giường, tắt đèn, nằm dưới cơn mưa
Bạn nhớ lại:
buổi học đầu tiên, kỳ thi cuối cùng
Nụ hôn ở giữa,
cuộc chiến tranh
Những cãi vã,
nạn cháy rừng, đứa bé chết trôi mùa lũ
Cuộc khủng bố.
Nhưng một ngày không kéo dài cách ấy
Nếu bạn muốn
sống nhiều cuộc đời trong một
Không phải chấn
thương, khúc quanh, mà chính buổi sáng
Bình yên, ly cà
phê quán cóc, thư viết tay, trò chuyện mỗi ngày bên bàn ăn, ngọn đèn bếp ấm,
đơn điệu của tình yêu, nhiệm vụ lặp lại
Của tình bạn,
tiếng tích tắc đồng hồ, lặp lại, mơ hồ nhớ, hay khắc sâu trong ký ức
Sẽ kéo dài ra cuộc đời bất tận
Như khi người khách lạ, vừa đi vội vã vừa kéo lê va
li trên đường
Hoàng hôn xuống, trong rừng, bạn lái xe, trời sắp
mưa, bạn phân vân nửa muốn dừng
Nửa muốn không. Và bạn đã dừng lại, và một ngày như
thế sẽ dài ra
Bài thơ mở đầu và kết
thúc trong tiết tấu chầm chậm, đều đều của ngôn ngữ kể. Nhà thơ Nguyễn Đức Tùng
đã lược bỏ gần như tối đa vẻ hoa mỹ của ngôn ngữ thơ ca truyền thống, như không
tu từ, như không chú ý tới nhịp điệu câu thơ. Ông cố ý để những hình ảnh xuất
hiện ngẫu nhiên, hỗn tạp như chính đời sống đang diễn ra. Tác giả bài thơ cũng
đóng vai người quan sát trong câu chuyện kể này: Đến khi bạn lên
giường, tắt đèn… Bạn nhớ lại… Và, những vấn đề tưởng chừng hệ trọng,
như chiến tranh, nạn cháy rừng, lũ lụt… được tác giả kể lại với giọng điệu nhẹ
tênh, tưng tửng, rồi thoáng qua như những hình ảnh chuyển động nhanh trong một
đoạn phim ngắn. Rồi nhà thơ bất ngờ chuyển cảnh: … Cuộc khủng bố. Nhưng
một ngày không kéo dài cách ấy. Ngay trong một câu thơ, có dấu chấm ở
giữa câu, nhà thơ bất ngờ chuyển sang “kênh” khác với những hình ảnh cố ý tạo
đốm sáng để thắp lên những khung cảnh khác cách ta rất xa về địa lý, trong nền
không gian sâu hút, mờ sương: ly cà phê quán cóc, ngọn đèn bếp
ấm... Đọc đến đây, tôi bỗng liên tưởng việc tiếp cận văn bản thơ, tựa
như được tác giả đặt vào tay một chiếc ống nhòm. Cầm chiếc ống nhòm ấy lên và
hướng vào khu rừng, ta thấy một con chim đang đậu lên đỉnh cây cổ thụ, rồi khẽ
nhích ống nhòm lại thấy con đường mòn, rồi khẽ nhích, khẽ nhích… Bỗng chốc ta
đã đủ hình dung quang cảnh cả khu rừng rộng lớn từ mọi góc nhìn.
“Sẽ kéo dài ra cuộc đời
bất tận
Như khi người khách lạ, vừa đi vội vã vừa kéo lê va
li
trên đường”.
Hai câu thơ đặt ở vị trí
gần kết thúc bài thơ như vô tình đẩy người đọc vào dòng chảy bất tận của đời
sống đương thời với ngổn ngang những âu lo, hạnh phúc, khổ đau, ý nghĩa và vô
nghĩa… Ngay trong một bài thơ không dài, Nguyễn Đức Tùng đã liên tiếp
mở ra nhiều không gian thơ tiếp nối và đan xen. Những không gian liên tục
chuyển động, liên tục diễn tiến và khép mở. Trong một thoáng phân vân nào đó,
nếu ta ý thức được ý nghĩa của nó, thì đó chính là niềm hạnh phúc bất tận trên
thế gian tuyệt đẹp và cũng đầy bất trắc này. Đây là một trong những bài thơ
cách tân có lối lập tứ độc đáo, cùng với ngôn ngữ và nhịp điệu khá giống những đoạn phim phóng sự pha trộn nhiều
hình ảnh trong những tiết tấu nhanh.
Thơ cách tân sau 1986
mang dấu ấn của nhiều khuynh hướng, trào lưu của thơ ca thế giới, trong đó phần
lớn ảnh hưởng chủ nghĩa Tượng trưng và Siêu thực. Khác với thơ Lãng mạn dựa
trên cảm xúc, thơ Tân Cổ điển dựa trên lý trí, thơ Tượng trưng và Siêu thực dựa
trên tư duy tâm lý. Có người còn cho rằng chủ nghĩa Siêu thực ngày nay rất gần
với tư tưởng của Thiền. Nếu so sánh giữa thế hệ thơ trước đây (Hàn Mặc Tử, Bích
Khê, Chế Lan Viên trong giai đoạn đầu…) với thế hệ các nhà thơ cách tân sau
1986, chúng ta thấy ảnh hưởng của chủ nghĩa Tượng trưng và Siêu thực đối với
hai thế hệ này có sự khác biệt căn bản. Trong tác phẩm của các nhà thơ thế hệ
trước, bóng dáng của Tượng trưng và Siêu thực nằm trong hệ hình ngôn ngữ, tổ
chức câu, cách tu từ…, nhưng trên căn bản thơ họ vẫn được cấu tứ trên nền tảng
của cấu trúc thơ Hiện thực và Lãng mạn. Nhưng, thơ cách tân sau 1986 đã thay
đổi tận gốc rễ kiến tạo không gian, thay đổi nền tảng của cấu trúc bài thơ, tạo
nên sự hỗn mang, đa chiều trong cách làm hiển lộ thi ảnh và phương hướng chuyển
động của chúng. Ở khuynh hướng này, dấu ấn của Tượng trưng và Siêu thực nằm ở
những mặt cắt của những mảnh không gian đan xen, tiếp nối, chồng lấn mờ nhoè…
Cách thiết lập hình ảnh, kiến tạo không gian của Tượng trưng và Siêu thực đã
giúp các nhà thơ cách tân sau 1986 và bạn đọc tự mở ra nhiều cánh cửa khi sáng
tạo và tiếp nhận, vượt qua được những đường biên của liên tưởng và cảm xúc quen
thuộc, thông thường. Xin dẫn một số câu thơ tiêu biểu của một số tác giả có ảnh
hưởng hai khuynh hướng vừa nêu:
“Nỗi
đau đớn tiếp tục cháy
trước khi nàng đặt vào mắt tôi
hòn đá khác
tất cả những gì thuộc về tôi đã
không như trước nữa” (Ở cùng một nơi với những người vấp ngã –
Trần Tiến Dũng).
“Vít tay ga phóng vượt qua nước mắt
Sang bên kia bầu trời
Chạm vào thời tiết và tan biến
Các chấm đỏ lại nôn nao ẩn hiện
Trong đường cua quái đản
Lấp lánh theo dọc dải Ngân hà
Em lộng lẫy sau xe như tích tắc cuối cùng của mùa
hạ” (Xe máy – Nguyễn Bình Phương).
Cùng với khuynh hướng
Tượng trưng và Siêu thực vừa nêu, dấu ấn của trào lưu Hậu hiện đại cũng để lại
khá đậm nét trong tác phẩm của một số nhà thơ cách tân, như thơ Trần Tiến Dũng,
Inrasara… Cần nói thêm rằng, tinh thần Hậu hiện đại ra đời ở phương Tây đã gần
nửa thế kỷ. Đây là một trào lưu văn hóa hơn là một khuynh hướng văn học. Song,
một số tác giả đã vận dụng cách viết của Hậu hiện đại (giễu nhại, lắp ghép,
liên văn bản, trần thuật đoản mạch, ý thức hỗn dung, xóa nhòa trung tâm và
ngoại biên…), và, họ đã có những thành công đáng kể. Đoạn thơ dưới đây của nhà
thơ Inrasara sáng tác theo phong cách Hậu hiện đại, như một dẫn chứng về cách
tự diễu, phản tỉnh mạnh mẽ:
“Tôi
đang làm
gì là gì
nhà
thơ nhà
nghiên cứu nhà kinh
doanh hay miếng giẻ
rách. Kiếp trước
chắc chắn tôi là
chim kiếp sau
làm loài
ếch có
lẽ kêu
ồm
ộp
ngoài mưa
Trí thức không hẳn trí
thức
truyền thống không thật
truyền thống
thi ca vắng mặt thi ca
Tôi kêu ồm ộp trong mưa
thật” (Chuyện
tôi – Inrasara)
Nhà thơ Trần Tiến Dũng
dùng những thủ pháp khác lạ, với tiết tấu nhanh, ngắt quãng trong không gian
hiện đại với nhiều mặt cắt. Hình ảnh một tay
chơi ruộng ngất ngưởng, phóng túng, xuất hiện thật đáng yêu trong khổ thơ
sau:
“Tay
chơi ruộng
trên đường miệng ngậm
rơm
tháng hai đuổi hơi thở
hắn
khỏi hương cá, hương cơm
thương không thương cũng
thôi em ơi!
chớ suốt đêm với gai mắc
cỡ
chết được rồi
sống lại mà chi!” (Tay chơi ruộng –
Trần Tiến Dũng)
Các nhà thơ cách tân áp
dụng thành công nhiều khuynh hướng thơ thế giới vào sáng tác, một mặt, đã làm
phong phú thêm thơ Việt đương đại, và theo một góc nhìn khác, đó chính là cách
để họ tìm đường đến với một phong cách thơ Việt hiện đại trong tương lai gần.
Phong cách sáng tác này khá gần với Chủ nghĩa Cổ điển Tự nhiên do Frederich Turner khởi
xướng với những tuyên ngôn chính: tái hợp nghệ sĩ với công chúng, tái hợp cái
đẹp với đạo đức, tái hợp nghệ thuật cấp cao với nghệ thuật cấp thấp, tái hợp
nghệ thuật với tay nghề, tái hợp nhiệt tình và trí tuệ, tái hợp nghệ thuật với
khoa học, tái hợp quá khứ với tương lai.
Một số bài thơ của
Nguyễn Đức Tùng, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, Giáng Vân… đã chịu ảnh
hưởng hoặc vô tình rất gần với khuynh hướng này. Đây cũng chính là dòng văn học
quy tâm, đưa nhân loại trở về với thuở ban sơ của mình:
“Trong biệt tăm
Tôi thả mình rơi thong thả
Không gì bực dọc
Chỉ rặt những thứ vu vơ
Tôi
Hóa ra những vụn vỡ nhỏ
Li ti
Hạt giống của loài hoa cỏ
Có thể nẩy mầm rất nhanh
Một sáng thôi
Làm tràn ngập sự thanh khiết” (Biến
hóa – Giáng Vân)
“nước câu mặt trời
mặt trời câu gió
phố câu người đời
ô
quê mùa câu phố
ngày mai câu một ngày mai khác
bằng gương mặt lơ vơ” (Buổi chiều câu
hờ hững – Nguyễn Bình Phương)
“Những vòm cây đã trộn vào nhau
Rễ trộn vào thân và lá trộn vào quả…
Tỉnh giấc trong khuya bởi màu trắng
cơn mê
Cố hương xoã tóc đen đi trong gió
trắng
Cố hương vật lên như sóng
Cố hương vùi mình như muối triệu năm” (Chuyến dịch màu
đen – Nguyễn Quang Thiều)
Những gương mặt
thơ cách
tân sau 1986 cho thấy mỗi tác giả thường ảnh hưởng từ một đến hai, thậm chí hầu
hết các khuynh hướng thơ chủ lưu trên thế giới. Điều này phụ thuộc vào cách
tiếp cận, hệ hình thẩm mỹ và nguồn tư liệu của mỗi người. Có một số tác giả dù
không tiếp cận trực tiếp với văn bản thơ của các trào lưu, khuynh hướng thơ bên
ngoài, nhưng sự đổi mới, cách tân của họ tự phát như một bản năng. Bởi ngay
trong những làn điệu dân ca, những câu ca dao, tục ngữ, ngạn ngữ… của mỗi dân
tộc từ xa xưa đã xuất hiện bóng dáng một số thủ pháp nghệ thuật như Tượng
trưng, Siêu thực, Biểu hiện, Hậu hiện đại... Hy vọng
tương lai thơ Việt sẽ có một
khuynh hướng, một trào lưu chính thức khi
đã được đúc kết, tập hợp và xác lập những nguyên tắc căn bản.
Xây
dựng và định hình một khuynh hướng thơ Việt hiện đại chính là đích đến của một
số nhà thơ cách tân sau 1986, cũng là mong đợi của nhiều độc giả hiện nay. Thơ
chúng ta không thể mãi chịu ảnh hưởng các khuynh hướng, trào lưu thơ ca bên
ngoài. Như tôi đã nói trong một vài tiểu luận trước đây, nếu đi ngược lại thời
gian từ tác phẩm của nhà thơ Tản Đà, nền văn chương khoa cử của Việt Nam về
trước chủ yếu chịu ảnh hưởng thơ Trung Hoa từ thời Đường đến thời Tống. Tương
tự như vậy, gần đây chúng ta mới chú tâm nghiên cứu thơ Nhật Bản, Ấn Độ và các
nước trong khu vực. Sau thời điểm tính mốc từ thơ Tản Đà, cuộc cách mạng Thơ
Mới đã đưa nền thơ chúng ta gần với thơ Hiện thực và Lãng mạn của phương Tây,
chủ yếu là thơ Pháp. Sau thời điểm Đổi mới, một
số tác giả cách tân áp dụng một số thủ pháp của các khuynh hướng hiện đại châu
Âu (Tượng trưng, Siêu thực, Biểu hiện…) và các trào lưu thơ khác sau đó, như
Hậu hiện đại, thơ Ngôn ngữ, Tân hình thức, Cổ điển tự nhiên… Hiện trạng tác
phẩm đã công bố cho thấy, có một số tác giả bị chôn chân trong các “bãi lầy”
trào lưu, khuynh hướng thơ mà thế giới đã đi qua. Ngay một số cây bút lý luận
phê bình cũng lúng túng trong cách phân định, đánh giá những tác phẩm mang tính
“thể nghiệm” này. Tôi nhớ khoảng mươi năm trước, mỗi khi xuất hiện tác phẩm có
cách viết lạ đều được một số nhà phê bình liệt vào dạng Siêu thực. Và gần đây,
những hiện tượng tương tự lại được ghép chung vào dạng Hậu hiện đại…
Trong
một lần trả lời phỏng vấn báo chí, tôi đã nêu quan niệm của mình: Chúng ta nên hiểu thấu đáo tất cả các trào
lưu, khuynh hướng thơ ca thế giới, bởi dù ít nhiều đó là một phần tinh hoa, văn
minh nhân loại. Nếu không học hỏi, chúng ta sẽ chỉ biết có mình, và nền thơ ca
của chúng ta sẽ đơn điệu, nghèo nàn... Song không nên và cũng không thể bê
nguyên những trào lưu, khuynh hướng đó vào thi ca của chúng ta. Bởi lúc này
chúng ta đang cần một hệ hình thẩm mỹ phù hợp hơn với điều kiện đặc thù của văn
chương nước ta, hay một khuynh hướng khác cho thi ca. Do vậy tôi quan niệm, các
trào lưu, khuynh hướng thơ ca bên ngoài cũng như các nguồn mạch, dòng sông đang
chảy qua cánh đồng thơ của chúng ta. Hãy để những nguồn mạch, những dòng sông ấy bồi đắp phù sa cho nền thi
ca Việt của chúng ta thêm phong nhiêu.”..
á
Khuynh hướng thơ cách
tân sau 1986 khi mới xuất hiện, và ngay trong thời điểm hiện nay vẫn gặp không
ít những phản ứng tiêu cực từ phía người đọc và một vài nhà nghiên cứu, phê
bình văn học. Thực tế cho thấy, những phản ứng này không làm chậm lại chuyển
động của dòng chảy thơ đổi mới, cách tân. Ngược lại, nó thôi thúc, kích hoạt
thêm quá trình định hình, khẳng định chắc chắn một khuynh hướng sáng tạo mới.
Một nền văn học phong
phú, đặc biệt thơ ca đương đại với nhiều khuynh hướng, nhiều phong cách sáng
tạo là tín hiệu đáng mừng cho đời sống văn học chúng ta, cần tiếp tục khuyến
khích, cổ xúy những giá trị sáng tạo mới. Sự xuất hiện những nhân tố mới trong
sáng tạo, thực tế đã và đang làm thay đổi quan niệm của khá nhiều tác giả, thay
đổi cả những thói quen vốn đã định hình của độc giả.
Văn học Việt Nam nói
chung, nhất là thơ chúng ta ít được độc giả quốc tế quan tâm. Cũng không hoàn
toàn do việc quảng bá văn học, theo tôi điều cơ bản là, thi pháp thơ Việt đã lỡ
mấy nhịp so với các trào lưu thơ thế giới. Thơ chúng ta đã dừng lại quá lâu,
chịu ảnh hưởng quá lâu của “bóng râm” Thơ Mới. Đã đến lúc thơ Việt cần thay đổi
để mang lại sinh khí mới cho đời sống văn học nước nhà và hòa nhập quốc tế.
01/2016
Tham khảo bài của GS Hoàng Ngọc Hiến: “Chủ nghĩa cổ điển mới, một trào lưu văn nghệ
tiến bộ đương phát triển ở Mỹ” (Tạp
chí Sông Hương số 198 ngày 24/3/2009, link:
http://www.tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c150/n1619/Chu-nghia-co-dien-moi-mot-trao-luu-van-nghe-tien-bo-duong-phat-trien-o-My.html);
và bài “Tiếp
nhận những cách tân của chủ nghĩa hiện đại & chủ nghĩa hậu hiện đại”
(Tạp chí Sông Hương số 233 ngày
16/7/2008,
link:
http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c93/n468/Tiep-nhan-nhung-cach-tan-cua-chu-nghia-hien-dai-chu-nghia-hau-hien-dai.html).

Tác phẩm sắp đặt của HS. Graziano Locatelli (Rome – Italia)